Trong lịch sử, Sông Hồng luôn gắn bó hữu cơ với quá trình hình thành và phát triển của Thăng Long – Hà Nội, cả về không gian kiến trúc cảnh quan và chức năng sử dụng. Khi đường bộ dần dần thay thế vai trò của đường sông, thành phố từng bước phát triển quay lưng lại với dòng sông. Tình trạng ấy kéo dài đến ngày nay.
Những năm gần đây, chính quyền TP Hà Nội đã nhận thức đúng vai trò quan trọng của không gian sông Hồng đối với thành phố trong việc tạo lập bản sắc đô thị. Đây là việc làm có ý nghĩa cấp thiết và quan trọng đối với sự phát triển của TP Hà Nội, nhất là trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. Nhiều dự án quy mô lớn với nhiều tham vọng do tư vấn nước ngoài và trong nước thực hiện đã được nghiên cứu một cách toàn diện nhằm mục tiêu phòng chống lũ, khai thác hiệu quả quỹ đất, tạo lập đô thị hiện đại,…
Trong phạm vi bài viết, bên cạnh vấn đề tạo dựng không gian sông Hồng thành trục cảnh quan chính, người viết mong muốn nhấn mạnh không chỉ Sông Hồng mà là sự kết hợp giữa Sông Hồng và Hồ Tây – nơi hội đủ các giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan đặc trưng để trở thành biểu tượng của không gian đô thị Hà Nội hiện đại, mở rộng.
Các giải pháp đã được đề xuất về tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan khu vực Sông Hồng, Hà Nội
Nghiên cứu quy hoạch nhằm khai thác giá trị của không gian Sông Hồng và Hồ Tây sớm nhất có thể là đồ án Quy hoạch của KTS E. Hebrard lập năm 1925. Hồ Tây trong đồ án được xác định là không gian cảnh quan quan trọng của Hà Nội. Sau đó, khu vực Hồ Tây tiếp tục được khẳng định là không gian trung tâm trong các đồ án Quy hoạch Hà Nội do Liên Xô (Viện Quy hoạch Leningrad lập) và Việt Nam lập trong những năm 70 và 80 của thế kỷ trước.

Năm 2006, Dự án quy hoạch cơ bản phát triển khu vực sông Hồng đoạn qua Hà Nội của tư vấn Hàn Quốc là dự án lớn nhất được công bố. Do nhiều lý do, dự án chưa thành hiện thực. Năm 2015, sau khi Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội được Chính phủ phê duyệt (năm 2011), UBND thành phố Hà Nội khởi động lại quy hoạch Sông Hồng và đã phê duyệt Dự án hỗ trợ kỹ thuật “Chiến lược phát triển quy hoạch đô thị hai bên Sông Hồng tại Hà Nội”. Đồ án do Viện Quy hoạch Hà Nội lập.

Phân tích Dự án lớn nhất do tư vấn Hàn Quốc lập, có thể nêu lên những thành công và hạn chế nhất định để cung cấp những ý kiến tham khảo khi quy hoạch khu vực Sông Hồng trong tương lai, trong đó lưu ý giá trị biểu tượng của không gian Sông Hồng kết hợp với Hồ Tây.
1. Thành công:
Xác định đúng các mục tiêu và nguyên tắc quy hoạch khu vực Sông Hồng là điểm đến hấp dẫn, sinh thái và phát triển bền vững. Cụ thể là:
– Tạo trục sinh thái để duy trì tính liên tục của hệ sinh thái tự nhiên khu vực sông Hồng. Trên cơ sở đó, đề xuất xây dựng công viên ven sông, một dạng không gian mở, vừa bảo tồn được hệ sinh thái sông Hồng, vừa tạo không gian nghỉ ngơi cho cư dân Hà Nội;
– Tạo điều kiện phát triển không gian cư trú, sinh hoạt công cộng và không gian kinh tế đô thị hiện đại, an toàn – Nhưng trên hết là hòa hợp với thiên nhiên;
– Tạo bộ mặt kiến trúc cảnh quan mới của Hà Nội – Một sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố thiên nhiên, văn hóa, lịch sử và hiện đại tại khu vực sông Hồng.
Trên cơ sở đó, Dự án định hướng phân thành 4 khu vực chức năng chính:
– Khu vực 1, từ Chèm đến cầu Thăng Long: Bảo tồn, phục hồi đặc tính tự nhiên của hệ sinh thái.

– Khu vực 2, từ cầu Thăng Long đến cầu Chương Dương: Khu vực sử dụng đa chức năng – không gian kinh tế đô thị hiện đại, một dạng CBD.

– Khu vực 3, từ cầu Chương Dương đến cầu Thanh Trì: Không gian mở có ý nghĩa giáo dục, lịch sử, văn hóa du lịch sinh thái.

– Khu vực 4, từ cầu Thanh Trì đến Bát Tràng: Không gian sinh thái sông Hồng.

2. Hạn chế:
Có thể nói, Dự án của Hàn Quốc quá tham vọng. Hạn chế chủ yếu là chưa khai thác trọn vẹn ý nghĩa biểu tượng cũng như sự gắn kết giữa sông Hồng với cảnh quan tự nhiên (Hồ Tây, Sông Đuống) và với không gian đô thị Hà Nội. Cụ thể là:
– Mối quan hệ giữa không gian Sông Hồng với các khu vực khác của Hà Nội, đặc biệt là những khu vực tiềm tàng những giá trị đặc trưng chưa được nghiên cứu đầy đủ làm cơ sở tạo nên sự đa dạng của các giải pháp tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan. Do đó, tổng thể không gian trong dự án mang tính áp đặt, chưa gắn kết hài hòa thành hệ thống cần thiết. Đó là mối liên kết tổng thể trên toàn tuyến sông Hồng và sông Hồng với Hà Nội, nhất là với Hồ Tây;
– Chưa tạo được dấu ấn hay là điểm nhấn không gian trọng tâm, thuyết phục trên toàn trục không gian sông Hồng (mang ý nghĩa biểu tượng đại diện bền vững của không gian đô thị Hà Nội). Đây là vấn đề chính cần được tập trung nghiên cứu để hoàn thiện ý tưởng quy hoạch của dự án.
– Khu vực 2 là khu vực có thể thỏa mãn yêu cầu trên, nhưng dự án lại chọn chức năng nhà ở, văn phòng làm việc cao tầng với mật độ tập trung cao và hình thức kiến trúc quốc tế không phù hợp. Đây là khu vực tập trung nhiều giá trị đại diện rất cần được chú ý khai thác, như:
- Về giá trị lịch sử, Tứ Liên là vùng đất có truyền thống lâu đời; Bến sông Đông Bộ Đầu vừa là cửa ngõ phía Đông Thăng Long, vừa là địa danh lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc của tổ tiên thời Lý, Trần và còn là nơi gần Cổ Loa – Kinh đô cổ đại của người Việt;
- Về cảnh quan thiên nhiên: Là nơi giao nhau của Sông Hồng, Sông Đuống và Hồ Tây, với yếu tố nước kết hợp cây xanh nhiệt đới phong phú, tạo nên giá trị cảnh quan thiên nhiên đặc trưng của khu vực. Các khối nhà cao tầng giống nhau, tập trung với mật độ cao ở khu vực này chỉ là một lựa chọn thuần túy vì lợi nhuận của bất động sản.
– Mặt khác, về phương diện tổng thể, có thể thấy mức độ can thiệp làm mới rất lớn, mâu thuẫn với quan điểm và nguyên tắc đã được khẳng định trong dự án. Cụ thể là tổng diện tích quy hoạch có thể phát triển được lên đến 2.462 ha trong khi diện tích cải tạo hiện trạng chỉ là 110ha, chiếm gần 5% là quá nhỏ. Điều này muốn nói đến tính khả thi của dự án về cả 2 phương diện di dân, giải phóng mặt bằng, triển khai xây dựng và nguy cơ phá vỡ đặc tính sinh thái tự nhiên và nhân văn của không gian sông, nhất là ở những khu vực nhạy cảm như khu vực 2.
Giá trị biểu tượng của không gian Sông Hồng và Hồ Tây trong quy hoạch tổng thể Hà Nội
Như đã phân tích ở trên, Sông Hồng, đoạn từ cầu Thăng Long đến cầu Chương Dương, nhất là khu vực khu vực Hồ Tây, Tứ Liên và ngã ba với Sông Đuống, là nơi tập trung nhiều giá trị đặc trưng về cảnh quan tự nhiên, lịch sử và văn hóa Thăng Long – Hà Nội.
Nước là yếu tố đặc trưng. Nước hội tụ ở ngã ba sông Hồng và sông Đuống, là nước hồ Tây – hồ lớn nhất Hà Nội. Cùng với nước là cây xanh. Đây là những yếu tố sinh thái tự nhiên đặc trưng của Hà Nội. Thêm nữa, nước gắn với sông cái (sông Hồng), nơi hội tụ, là cội nguồn của văn hoá Việt với tiềm tàng những giá trị lịch sử, văn hóa và tâm linh.
Trên thực tế, về phương diện địa hình thái, dễ dàng nhận thấy, Hồ Tây có dạng nửa đường tròn ở phía Tây, nếu vẽ tiếp thành một vòng tròn sẽ ôm khít bãi Tứ Liên và ngã ba Sông Hồng với Sông Đuống. Đây là một không gian quy ước, hội tụ những giá trị đặc trưng về cảnh quan tự nhiên và văn hóa, lịch sử, rất cần được tôn trọng và khai thác để trở thành biểu tượng của Hà Nội mở rộng. Do đó, không nên quy hoạch trong khu vực này những tổ hợp công trình cao tầng hiện đại mà chỉ nên dành cho các không gian sinh hoạt công cộng với các công trình văn hóa thấp tầng. Mặt cắt cảnh quan đô thị Hà Nội hiện đại mở rộng cao dần ra ngoài về các hướng, ngược với quy luật phổ biến về hình thái đô thị trên thế giới là cao ở trung tâm và thấp dần ra bên ngoài.

Tóm lại, sông Hồng kết hợp với Hồ Tây là một không gian hội tụ các giá trị lịch sử, văn hoá và cảnh quan thiên nhiên đặc trưng, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của Thăng Long – Hà Nội. Đây là những cơ sở quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc tạo dựng giá trị biểu tượng của khu vực, cũng như vai trò là không gian liên kết tự nhiên, lịch sử và văn hóa Cổ Loa – Thăng Long – Hà Nội trong quy hoạch tổng thể Hà Nội mở rộng. Vì vậy trong nghiên cứu quy hoạch, cần lưu ý:
– Về phân bố chức năng, trên nguyên tắc coi trọng các yếu tố tự nhiên, lịch sử và văn hóa, chức năng chính ở khu vực này dành cho các hoạt động công cộng, giao lưu văn hoá cả ở quy mô quốc tế như “Sảnh lớn” của “Ngôi nhà Hà Nội”, mà không thiên về chức năng cư trú và kinh tế đô thị hiện đại.
– Về tổ chức không gian, chú trọng tính toàn vẹn của không gian mở với ưu thế của cảnh quan tự nhiên. Kiến trúc hài hòa với cảnh quan, không tạo nên sự ngăn cách mà nhấn mạnh lối vào các không gian đô thị khác nhau từ vòng tròn không gian trung tâm. Không chỉ tạo lối vào trục không gian lớn Hồ Tây – Cổ Loa, mà còn cần tạo ra nhiều hơn các trục không gian liên kết, kể cả liên kết ảo. Đó là những lối vào khu vực hạt nhân lịch sử (Thành cổ, phố cổ, phố cũ), công viên Hồ Tây, Trung tâm dịch vụ tài chính mới (CBD) Tây Hồ Tây, Phương Trạch cùng các trung tâm giải trí, tổ chức sự kiện quốc tế ở phía Bắc,… Chính sự khác biệt về kiến trúc cảnh quan ở mỗi lối vào các không gian đô thị vừa tạo nên vẻ đẹp đa dạng vừa nhấn mạnh đặc trưng hình thái của các không gian đô thị Hà Nội.
PGS.KTS. Nguyễn Quốc Thông
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 4 – 2017)
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Huy Liệu (Chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội. NXB Hà Nội, 2000.
2. Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông. Thăng Long-Hà Nội – Mười thế kỷ đô thị hóa. NXB Xây dựng, 1995
3. PPJ, Viện Kiến trúc, Quy hoạch đô thị và nông thôn, Viện Quy hoạch Hà Nội. Quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Hà Nội, 2011
4. Tư vấn Hàn Quốc. Dự án quy hoạch cơ bản phát triển khu vực sông Hồng đoạn qua Hà Nội. Hà Nội, 2006
5. P. Panarai. Analyse urbaine, Ed. Parentheses, Paris 1999