Nan đề trong đồ án Quy hoạch trung tâm Hòa Bình

Ngày 23/03/2019 trên Báo điện tử của Bộ Xây dựng có đăng bài phỏng vấn KTS Hồ Thiệu Trị – tác giả đồ án quy hoạch khu vực trung tâm Hòa Bình, TP Đà Lạt. Trong lời dẫn, phóng viên cho KTS Hồ Thiệu Trị và bạn đọc biết: “Sau khi UBND tỉnh Lâm Đồng công bố “Quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị – tỉ lệ 1/500 khu vực trung tâm Hòa Bình, TP Đà Lạt”, rất nhiều ý kiến trái chiều đã được đưa ra, đặc biệt là việc dỡ bỏ rạp Hòa Bình và di dời Dinh Tỉnh Trưởng.”

Đọc các câu trả lời của kiến trúc sư (KTS) Hồ Thiệu Trị, tự nhiên tôi thấy nhớ đến “Thuyết nan” (cái khó trong việc du thuyết) của Hàn Phi, một học giả nổi tiếng thời Chiến Quốc, và thấy rằng tác giả đồ án tự tạo cho mình một số nan đề (vấn đề khó) xung quanh việc diễn giải cho những ý tưởng và giải pháp của đồ án. Cụ thể có 6 nan đề:

1 – Có thể nói việc tăng cường không gian xanh là ý tưởng chính của đồ án, tiếp theo là hình thành nhiều quảng trường lớn. Ở đây, tác giả đã sử dụng những ngôn từ dễ nghe nhất, những thuật ngữ thời thượng, dễ thuyết phục nhất. Cũng trong bài trả lời phỏng vấn trên, KTS Hồ Thiệu Trị còn nêu lên 6 lập luận khác mà cơ bản là trùng với lập luận thứ nhất, tức là tăng cường không gian xanh – không gian mở. Các lập luận này cứ lặp đi lặp lại đến 7/ 7 lần đã chứng tỏ rằng đồ án có một số ý tưởng đang thật sự khó trình bày cho rành mạch, đó là vấn đề bảo tồn di sản, di tích kiến trúc và giữ gìn ký ức lịch sử, “hồn nơi chốn”… của khu vực trung tâm Hòa Bình mà cụ thể là việc quyết định dỡ bỏ rạp Hoà Bình và di dời Dinh Tỉnh Trưởng. Và đau đầu hơn là làm sao bảo vệ cho được quyền lợi thật sự của nhà đầu tư. Đây chính là lý do chính gây nên làn sóng phản đối, những ý kiến trái chiều từ phía cộng đồng – những người chẳng ai thèm hỏi ý kiến trước đó.

2 – Là một KTS, người viết bài này rất thông cảm với tác giả đồ án – nếu hiểu rằng KTS ở Việt Nam là những người được “thuê” để vẽ đồ án cho một ngôi nhà, một building… Khi đấy thì những vấn đề về khía cạnh pháp lý của việc thiết kế đã khá rõ ràng (lộ giới qui hoạch, khoảng lùi công trình, mật độ xây dựng, chiều cao công trình, hệ số sử dụng đất…), tất cả nằm trên một khuôn đất có chủ sở hữu (nhà đầu tư) cũng rõ ràng không kém. Khi đấy thì KTS chỉ còn có việc phô diễn tài năng của mình trong các giải pháp thiết kế từ khía cạnh công năng cho đến thẩm mỹ, từ kỹ thuật đến tính khả thi… Ấy thế mà búa rìu dư luận đôi lúc cũng còn không buông tha nếu như cái ngôi nhà ấy xây lên bị cho là xấu, là lỗi thời và có thể làm hỏng “đường chân trời” (skyline) của một đô thị nào đó. Đằng này, KTS Hồ Thiệu Trị lại tự mình vác cái “cây thập tự” qui hoạch chi tiết và thiết kế đô thị nên mới khổ đến thân. Nên hiểu rằng, ngày hôm nay không có chuyện một KTS công trình – dẫu có tuổi nghề cao – “nhảy vào” làm qui hoạch. Ngay cả những đô thị gia và chuyên gia thiết kế đô thị cũng không thể làm việc cá nhân được, vì hai cái nghề trên thực chất là một kỳ công xử lý trên diện rộng rất nhiều loại thông tin từ kinh tế đến xã hội, từ lịch sử đến tâm linh, từ kiến trúc đến bảo tồn, từ nguồn vốn cho đến tính khả thi… Vì vậy mà có thể hiểu được tại sao những lập luận của tác giả đồ án cứ loanh quanh, lặp đi lặp lại những từ ngữ đến mức tôi cảm thấy rất bất tiện nếu như phải chép lại đầy đủ ở đây vì sự ngớ ngẩn, hỗn độn của ngôn từ.

3 – Cũng vì là một KTS, người viết bài này rất thông cảm với tác giả đồ án ở cái ý: là một người được “thuê” để vẽ đồ án qui hoạch chi tiết và thiết kế đô thị, thì điều đầu tiên ông Trị phải làm tất nhiên là tìm hiểu ý đồ đầu tư và quyền lợi của người đã thuê ông là gì? Chắc chắn rằng mọi nhà đầu tư tư nhân hiện nay đều phải nhìn thấy trong cái dự án mà họ đầu tư là bao nhiêu m2 sàn sẽ được xây để đảm bảo hiệu quả đầu tư là cao nhất trong thời gian ngắn nhất có thể. Đó là ý tưởng chính của tất cả các nhà đầu tư. Không hề có nhà đầu tư nào bỏ tiền ra để nhằm giải quyết hai việc “tăng cường không gian xanh” và “hình thành nhiều quảng trường lớn” cho khu vực trung tâm Hòa Bình, TP Đà Lạt như những gì ông Trị đã nói. Vì thực chất thì KTS cũng không có quyền gì, quyền quyết định ở đây thuộc về UBND tỉnh Lâm Đồng. Nhưng UBND tỉnh cũng không có kinh phí để thực hiện việc tôn tạo, chỉnh trang đô thị như mong muốn, nên chỉ còn phương thức kêu gọi các nhà đầu tư. Và như vậy thì một cú bắt tay “đổi đất – lấy cảnh quan” sẽ cần phải được thực hiện. Vậy nên cần hiểu rằng những ý tưởng mà ông Trị nêu trên chỉ là những từ ngữ hoa mỹ mà người ta hay dùng có tính bề ngoài để “đánh tráo khái niệm” hoặc làm lạc hướng chú ý của dư luận mà thôi. Ý thức được cái nỗi khó khăn này, tác giả đồ án đã không ngần ngại sử dụng phương thức của những nhà du thuyết cổ đại, đó là: dấu đi cái mục đích thật sự (lợi nhuận của nhà đầu tư) bằng cách che đậy lên bên trên nó tới 7 lớp lập luận – mà thực chất là chỉ có một lập luận (cái ý mà cộng đồng thích nghe). Cái ý mà cộng đồng thích nghe ở đây chính là: “tăng cường không gian xanh”, “hình thành nhiều quảng trường lớn” và “giảm lưu lượng xe tập trung về khu trung tâm”… Hàn Phi từng viết: “việc thuyết phục là cốt ở chỗ biết tô điểm cho cái mà nhà vua quý trọng, từ bỏ cái mà nhà vua ghét”. Cái ý này có vẻ đã được tác giả đồ án vận dụng rất tốt. Nhưng hiệu quả trước công luận thì hình như lại ngược lại, vì rằng: sách lược du thuyết ngày xưa có thể dùng khi tấu trình trước một cá nhân có toàn quyền sinh sát – ông vua; nhưng cộng đồng ngày nay thì cần phải được thuyết phục bằng sự thật. Sự thật là trong đồ án này, rạp Hoà Bình thì bị dỡ bỏ và Dinh Tỉnh Trưởng thì bị di dời. Sự thật này là không thể được chấp nhận bởi cái dự định sẽ thay vào đấy ít nhất 3 tòa nhà không hẳn là xấu, nhưng chắc chắn là không hợp cảnh. Mà những việc hệ trọng này không hề được tác giả đồ án nhắc đến dù chỉ một lần trong toàn bộ bài phỏng vấn. Có thể ông cũng thấy rằng đoạn này đến “nói” còn khó chứ mong gì “nuốt” cho trôi.

4 – Nhưng đến gần cuối bài phỏng vấn, tác giả đồ án nhận định: “khu rạp Hòa Bình hiện tại đang bị xuống cấp trầm trọng và khai thác không hiệu quả…” thì thú thực là tôi không thể chia sẻ được. Với tư cách của một KTS chủ trì đồ án, trước khi quyết định số phận của một công trình dẫu không có gì đặc sắc, nhưng lại là vấn đề nhạy cảm, thì KTS phải có đủ sự nhạy cảm tương ứng để từ từ tháo gỡ cái ngòi nổ ra khỏi chỗ nhạy cảm này của công luận mới phải. Tại sao tác giả đồ án không học theo các KTS ở châu Âu đã cư xử tinh tế như thế nào đối với kiến trúc của các thế hệ đi trước, chứ chưa cần nói tới cách ứng xử đối với các công trình thuộc hạng di tích kiến trúc – lịch sử – nghệ thuật. Hẳn rằng tác giả đồ án không xa lạ gì với công trình cải tạo tòa nhà chính La Grande Halle, vốn là chuồng gia súc cũ do Jules de Merindoi xây năm 1867 được chuyển thành một không gian hiện đại, làm nơi diễn ra các liên hoan nghệ thuật trình diễn (âm nhạc, múa, xiếc…) hay các hội chợ triển lãm quốc tế… Đây là một hạng mục rất hấp dẫn và thu hút du khách khi đến Paris Parc de La Villette.

Parc de la Villette trước khi cải tạo
Parc de la Villette sau khi cải tạo

5 – Tôi rất ngạc nhiên khi đọc những nhận định của tác giả đồ án liên quan đến Dinh Tỉnh Trưởng: “Hiện trạng khu vực này đã xuống cấp, không thu hút được khách tham quan du lịch. Việc đề xuất cải tạo hoặc di dời trong khuôn viên là định hướng chung để các nhà thiết kế có thể đưa ra các phương án tối ưu nhất…”. Thứ Nhất, để cho một di tích kiến trúc – lịch sử xuống cấp đến mức không thu hút được khách du lịch tham quan là bằng chứng cho thấy một sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm đã kéo dài quá lâu đối với tài nguyên chung này của các cấp quản lý và là một sự lãng phí rất đáng chê trách. Nếu các cấp quản lý thực sự quan tâm, chú trọng bảo dưỡng, duy trì thì hiệu quả sử dụng mấy chục năm qua đã không bị mai một và giờ đây cũng giảm được gánh nặng cho ngân sách trùng tu, bảo tồn. Thứ Hai, việc di dời, dù là “trong khuôn viên” đối với một di tích như Dinh Tỉnh Trưởng ở khu Hòa Bình cũng sẽ trở nên bất cập như khi người ta định di dời ngôi đền Parthenon đến một góc nào đó trên đồi Acropolis ở Hy Lạp.

Toàn cảnh Acropolis ở TP. Athens – Hy Lạp cho thấy những di tích kiến trúc cổ đại dù đổ nát, nhưng vẫn toát lên giá trị văn hóa – lịch sử có một không hai. Để xây dựng một nhà bảo tàng hiện đại (góc khoanh đỏ), nơi bảo quản các tác phẩm nghệ thuật cổ đại, người ta đã phải chọn vị trí xa nhất và công trình có khối tích nhỏ bé hơn hẳn so với các di tích bên ngoài quảng trường để không gây ảnh hưởng đến phần có giá trị nhất – Di tích lịch sử. Thống kê năm 2014, mỗi năm có khoảng 3 triệu 500 lượt du khách đến tham quan.
Để trả lại không gian nguyên gốc cho quần thể Acropolis, Bảo tàng Acropolis mới của Hy Lạp đã được xây dựng ở vị trí khác thuộc chân ngọn đồi Acropolis và khánh thành ngày 20/6/2009.

Chỉ riêng điều này tất nhiên là không thể chấp nhận được chứ chưa nói đến việc xây khách sạn 7-10 tầng nghễu nghện trên một khu đồi xanh cao nhất khu vực. Kinh nghiệm chung cũng cho thấy, trừ việc xây dựng các đền thờ cho thần linh hoặc đài quan sát thiên văn vốn phải xây các kiến trúc cao/ cao tầng ở trên những địa điểm cao nhất trong thành phố, chứ không ai lại chồng lên một ngọn đồi một cấu trúc cao tầng như trường hợp này của Đà Lạt cả. Cái đẹp của kiến trúc ở Đà Lạt không thể tách rời khỏi yếu tố địa hình và cây xanh mà PGS. TS.KTS Nguyễn Hồng Thục gọi là “những phối cảnh ngô nghê” với những chiếc mái hình bán cầu vô cùng xa lạ.

6 – Nếu Đà Lạt thật sự có nhu cầu xây dựng những công trình thương mại, du lịch hiện đại thì không phải không có phương cách thích hợp, đó là các khu vực nằm bên ngoài khu trung tâm và cảnh quan đặc sắc của hệ thống các hồ nước. Phải thừa nhận rằng đang tồn tại một nghịch lý lớn lao giữa bảo tồn và phát triển ở khắp các đô thị lớn nhỏ của chúng ta. Nhà đầu tư thường không mấy quan tâm, đồng hành cùng các thành phố trong việc “vẽ” nên những đô thị hiện đại. Cái mà họ quan tâm nhất là lợi nhuận trong mức đầu tư thấp nhất có thể. Khu Thủ Thiêm của TP. HCM cho đến nay vẫn chưa phát triển, theo ý kiến của TS Ngô Viết Nam Sơn: “trong khi mong muốn ban đầu Thủ Thiêm là nơi thu hút các tập đoàn lớn xây dựng thành khu trung tâm kinh tế, tài chính… tầm cỡ khu vực”, thì nay chỉ thấy những dự án của các nhà đầu tư tư nhân, chủ yếu xây nhà để bán. Nhìn bức ảnh chụp bán đảo Thủ Thiêm sau hơn 20 năm qui hoạch đến nay vẫn còn như một bãi đất hoang, trong khi ở bên bờ đối diện thì những toà nhà cao tầng mọc lên dày đặc như những bức tường rào.

Bán đảo Thủ Thiêm hoang vắng sau 20 năm QH
Những cao ốc bên bờ Tây thật giống như những bức tường rào bao vây Thủ Thiêm. Câu hỏi đặt ra: tại sao Thủ Thiêm đã dọn sãn mặt bằng mà các nhà đầu tư vẫn thích ở lại bên bờ bên kia hơn với món “mì ăn liền”?

Điều đó giải thích tại sao người ta quyết tâm di dời một di tích như Dinh Tỉnh Trưởng để xây dựng một khách sạn 10 tầng dù rất ngô nghê. Do biết trước rằng công luận sẽ phản đối kịch liệt, nên họ mới ra sức nói về “tăng cường không gian xanh” “hình thành nhiều quảng trường lớn”.

Qua 6 nan đề nêu trên mới thấy việc tạo dựng tính đồng thuận ngày nay còn có nhiều cái khó hơn so với việc du thuyết ngày xưa đến như thế nào.

Xem thêm ý kiến phản biện bài PV KTS. Hồ Thiệu Trị của KTS. Cao Thành Nghiệp và KTS. Nguyên Hạnh Nguyên tại: https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/quy-hoach-trung-tam-da-lat-can-xem-xet-lai-tu-khau-phan-tich-boi-canh-den-giai-phap.html

KTS Lê Thanh Sơn – Đại học Kiến trúc TP. HCM
© Tạp chí kiến trúc