Đối thoại với KTS Nguyễn Địch Long ngôi làng Việt Nam

KTS Nguyễn Địch Long và tác giả

Là hội viên Hội KST Việt Nam, Nguyên Chủ tịch Hội KTS tỉnh Hà Tây (cũ), KTS – Nhà thơ Nguyễn Địch Long đã có nhiều công trình, sưu tầm, bài viết, bằng tranh ảnh về kiến trúc cổ ở một số làng quê Việt Nam. Nhân dịp đầu xuân mới Mậu Tuất, nhà văn Lê Hoài Nam đã có cuộc trò chuyện với KTS Nguyễn Địch Long về KTS – Nhà thơ Nguyễn Địch Long.

Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

Nhà văn Lê Hoài Nam: Là KTS lão thành với nhiều công trình gắn với làng, Ông nghĩ thế nào về ngôi làng Việt Nam ngày nay?

KTS Nguyễn Địch Long: Có nhiều từ đồng nghĩa với nhau như: Trang, ấp, hương, thôn… nhưng từ “làng” có nghĩa đầy đủ hơn cả nó, mang bản sắc quê hương, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi.

Cổng phụ phía Đông chùa Cự Đà, Cự Khê. Thanh Oai – Hà Nội
Tranh: HS Bùi Tiến Dũng

Tổ hợp không gian kiến trúc làng bao gồm nhà ở khu dân cư, các đình, chùa, đền, miếu, các công trình văn hóa xã hội khác, đặc biệt, mỗi làng hầu hết đều có một cổng làng – Đó là dấu ấn văn hóa rất riêng. Tổ chức không gian làng mang nét đặc trưng như một pháo đài, bên ngoài là lũy tre vây kín, bên trong là hào nước, lối ra vào chính là cổng làng. Trong lịch sử chiến tranh giữ nước, mỗi làng quê là một vùng bất khả xâm phạm. Trong kháng chiến chống Pháp, thực dân Pháp đã thất bại khi tấn công vào nhiều làng thuộc khu Cháy, Tam Hưng và nhiều làng quê khác. Mỗi làng mang một bản sắc văn hóa riêng biệt tạo nên bản sắc văn hóa của cả dân tộc.

Nhà văn Lê Hoài Nam: Ông có thể chia sẻ những câu chuyện về ngôi làng Việt Nam?

KTS Nguyễn Địch Long: Vâng, tôi đã được Hội KTS Việt Nam giao cho thực hiện hai đề tài: Một là nghiên cứu về sự ra đời những cổng làng Việt có trên đất Hà Tây; hai là nghiên cứu về sự hình thành và định hướng phát triển ở trong thời kỳ đô thị hóa của ngôi làng Cự Đà, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai.

Hà Tây xưa có trên 300 xã, mỗi xã có từ 3-5 làng, có xã tới 9-10 làng, cả Hà Tây có khoảng 1500 làng. Làng cũng có cổng làng, nhiều làng có đến 2 cổng. Cổng trước gọi là cổng Tiền, dành cho sinh hoạt giao thương và chức sắc cấp trên, hay những bậc danh khoa vinh quy bái tổ. Cổng Hậu dành riêng đưa tiễn các vong linh về cõi vĩnh hằng. Nhiều làng có nhiều xóm, mỗi xóm có một cổng riêng. Làng Cự Đà có 18 cổng xóm là vậy. Do chiến tranh phá hoại, do một thời ngộ nhận cổng làng là tàn dư văn hóa cũ, do đô thị hóa và nhiều lý do khác nữa mà nhiều cổng làng xóm đã không còn. Đến nay, mảnh đất Hà Tây chỉ còn lại khoảng trên 150 cổng làng. Nếu không có một chính sách rõ ràng, một quy định cụ thể, một quy hoạch đúng đắn và thái độ trách nhiệm của cộng đồng thì các cổng làng cổ sẽ mai một và biến mất nhanh chóng. Rất mừng là một số làng từ lãnh đạo đến nhân dân đã ý thức được vấn đề này, họ đã và đang tiến hành phục hồi một số cổng làng.

Ảnh: KTS Nguyễn Địch Long

Trong quá trình nghiên cứu về làng Cự Đà, tôi thấy đây là một làng Việt Cổ giàu bản sắc truyền thống văn hóa. Tôi cho rằng cộng đồng dân cư làng Cự Đà đã được hưởng một nền văn minh hiện đại từ rất sớm, quy hoạch làng xóm rất rõ rang, khúc triết và khoa học. Con đường làng bám theo sông Nhuệ xưa “bãi dâu nương lúa xanh rờn”, nước quanh năm trong mát. Trên con đường trục của làng có 3 cổng chính: Cổng Thượng, cổng Trung, và cổng Hạ, được xây dựng từ năm 1886 (nay chỉ còn cổng Trung); 18 xóm, mỗi xóm là một đường nhánh nối với trục chính theo kiểu “răng bừa”. Bám vào đường xóm là hai dãy khuôn viên. Mỗi hộ có diện tích chiếm đất từ 300m2 đến một sào Bắc bộ, cũng có hộ còn lớn hơn. Những ngôi nhà đều quay chung về một hướng. Mỗi xóm có một chiếc cổng cổ, kiểu dáng phong phú không cái nào giống cái nào… Làng Cự Đà có hàng trăm ngôi nhà cổ quý còn tồn tại đến này nay. Đặc biệt là còn vài chục ngôi biệt thự mang phong cách Pháp. Từ đầu thế kỷ 20 đến năm 1945, làng Cự Đà đã có nhiều “ông vua” nổi danh như: Vua ô tô, vua tàu thủy, vua ruộng đất, vua dệt…

Khi cơn lốc đô thị hóa ập đến làng Cự Đà – dân số tăng nhanh, với thái độ nghiêm túc của người nghiên cứu, chúng tôi đã đề nghị phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể để bảo tồn giá trị của làng Việt cổ đặc biệt này. Muốn bảo tồn giá trị của nó cần có kế hoạch dành ra quỹ đất để phục vụ công việc giãn dân. Quỹ đất này là dải cách ly giữa làng cổ và khu đô thị mới với hình thức kiến trúc đảm bảo sự hài lòng và là gạch nối đồng điệu giữa khu đô thị mới và khu bảo tồn giữ gìn bản sắc văn hoá làng cổ.

Tiếc thay, điều này đã không thành hiện thực, đến với Cự Đà hôm nay, người ta không khỏi xót xa về sự dần biến mất của những ngôi nhà cổ. Cả làng Cự Đà là một công trường, ô tô chuyển vật liệu tấp nập vào ra và cát bụi mù mịt. Tôi đã ngậm ngùi viết một vài ký sự “Cự Đà – Một miền quê thương lắm” khi cơn lốc đô thị hóa đang hủy hoại mảnh đất này và nhiều vùng khác nữa.

Trong khi đó, tôi lại rất mừng về cán bộ và nhân dân làng Vạn Phúc, họ đang nỗ lực để bảo tồn, tôn tạo và phát triển văn hóa làng một cách cụ thể, đầy ý nghĩa, xứng danh với một nền văn hóa lâu đời mà bao thế hệ đã tạo dựng.

Nhà văn Lê Hoài Nam: Hiện nay, những ngôi làng đang mai một trong quá trình đô thị hóa, những làng nghề cũng lao đao theo. Ông có thể chia sẻ điều gì về sự hưng vong của những làng nghề Việt Nam?

KTS Nguyễn Địch Long: Hà Nội ngày nay rất rộng về địa lý, đông về dân cư và nhiều vùng miền khác nhau. Tôi xin phép chỉ nói về mảnh đất Hà Tây xưa thôi, vì đó là mảnh đất tôi gắn bó nhiều năm. Hà Tây xưa nổi tiếng đất trăm nghề: Rèn Đa Sỹ và Thanh Thùy, nón Chuông, thêu ren Quất Động, khảm trai Chuyên Mỹ, may Comple Đại Xuyên, may áo dài Ngọ Xá, dệt lụa Vạn Phúc, dệt màn Phùng Xá, chạm khắc Du Dự, miến rong giềng Cự Đà, Vân Côn, may mặc và làm con giống Tam Hiệp, vẽ tranh Kim Hoàng, giò chả Ước Lễ, mũ lá Tri Lễ, nem Phùng, bánh kẹo La Phù, bún Cổ Đô, rượu Trường Yên, ảnh Lai Xá, mây tre đan Phú Vinh, đan lát tăm hương Canh Hoạch, nghề pháo Bình Đà, nghề Mộc Trảng Sơn… Làng nào cũng có một bộ phận không nhỏ tách khỏi nghề nông ra làm nghề riêng. Ngày nay, sau khi một số làng nghề cây cảnh, cá vàng, tò he được du nhập và phục hồi từ đất Hà Nội cũ, làng nghề trên mảnh đất Hà Tây cũ hôm nay càng thêm phong phú và nhuận sắc.

Tuy nhiên, các làng nghề ấy đều chưa có kế hoạch phát triển bền vững, chưa tạo ra một sản phẩm với thương hiệu uy tín, đa phần đều phát triển tự phát, chưa khẳng định chất lượng và công nghệ, chưa tạo được vùng nguyên liệu chắc chắn, chưa tổ chức bài bản… nên gặp phải thời kỳ suy thoái kinh tế như hiện nay, hầu hết các làng nghề đều gặp không ít khó khăn, thậm chí nhiều làng nghề đứng trước tình trạng cạn kiệt và nguy cơ phá sản.
Tôi đã từng tham gia lập quy hoạch một số làng nghề, nhiều làng nghề cũng có quy hoạch nhưng đa số các bản quy hoạch cũng chỉ để trưng bày mà thôi.

Đảng và Nhà nước đã có chủ trương và hoạch định nhiều chính sách về làng nghề, giữ gìn nghề truyền thống gắn với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là một việc làm cần thiết và mang ý nghĩa lớn lao, nhưng chủ trương cần sát thực, phù hợp với thực tế, mang lại hiệu quả thiết thực và bền vững.

Nhà văn Lê Hoài Nam: Trong buổi đối thoại này, chúng ta chủ yếu nói về kiến trúc làng. Nhân dịp đầu xuân, ông có thể chia sẻ với độc giả TCKT một tác phẩm mới của ông?

KTS Nguyễn Địch Long: Tôi hết sức tâm đắc về bức ảnh cây gạo xù bên đường QL 21B thuộc địa phận làng Quảng Nguyên trên đường đi vào Chùa Hương. Mỗi độ xuân về, hoa gạo nở đỏ như những chùm đèn thắp sáng bụi mưa xuân và cánh đồng lúa xuân đang trải màu xanh, một con trâu đang gặm cỏ non của mùa xuân. Nhưng thật buồn, đó là mùa hoa cuối cùng của cây gạo xù đã tồn tại hàng thế kỷ. Với tâm trạng ấy, tôi đã da diết nhớ về nó và làm nên bài thơ “Xuân về cây gạo xù sao không trở bông”

Xin được gửi tặng độc giả TCKT. Chúc giới KTS nước nhà một mùa xuân mới An khang, thịnh vượng và có thêm nhiều tác phẩm mới!

“Xuân về cây gạo xù sao không trổ bông?

Mỗi mùa Chùa Hương vào hội
Bên đường xuân gạo ra hoa
Mỗi mùa lá xanh con gái
Gạo giăng bông trắng la đà

Xuân này qua miền đất ấy
Đâu còn thấy gạo phơi bông
Bơ vơ bờ hoang mưa rắc
Gạo khô đen thẫm mặt đồng

Nghìn năm gạo xù đứng đó
Chở nghìn mùa xuân trở về
Nghìn năm gom mình ươm lửa
Cháy nghìn năm đỏ hồn quê

Giờ qua có gì trống vắng
Dấu xưa lặng lẽ đi rồi
Bỏ lại khoảng trời đầy nắng
Đường chiều hun hút sương rơi”

Nhà văn Lê Hoài Nam: Cảm ơn KTS – Nhà thơ Nguyễn Địch Long! Chúc ông Xuân mới mạnh khỏe và tiếp tục những nghiên cứu về những ngôi làng Việt Nam!

Nhà văn Lê Hoài Nam (Thực hiện)

(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 01-2018)