An Hiên – mái hiên yên bình

Huế đẹp không chỉ vì dòng sông Hương thơ mộng và phong cảnh hữu tình. Huế còn đẹp bởi Huế có một hệ thống di sản kiến trúc – văn hóa dày đặc và phong phú. Bên cạnh những kiến trúc thành quách, cung đình, lăng tẩm… của vương triều phong kiến xưa; Huế còn có một di sản kiến trúc khác – đó là nhà vườn – một dấu ấn đậm nét vừa mang nét tinh hoa quý tộc, lại vừa có màu sắc dân gian truyền thống. Nhà vườn Huế là một loại hình kiến trúc đặc sắc, riêng biệt và vẫn tồn tại cùng cuộc sống, cùng thời đại chứ không phải là dĩ vãng – đã lùi vào lịch sử. Trong hàng trăm, hàng ngàn những nhà vườn từ thành nội ra ngoại ô, thì tiêu biểu nhất là nhà vườn An Hiên, nơi còn lưu giữ được gần như nguyên vẹn hình thái quy hoạch – kiến trúc, môi trường, và thể hiện một cốt cách văn hóa của người dân cố đô.

Lịch sử lâu đời cùng những thăng trầm của một ngôi nhà

An Hiên – chiết tự là “hiên nhà bình an”. Nhà vườn An Hiên nằm ở bờ bắc sông Hương, phía tây kinh thành, thuộc vùng đất Kim Long, nơi xưa kia là thủ phủ của các chúa Nguyễn. (nay là địa chỉ số 58 đường Nguyễn Phúc Nguyên, thôn Xuân Hòa, xã Hương Long, TP Huế). Cũng như kinh thành và nhiều kiến trúc khác ở Huế, nhà vườn An Hiên cũng quay ra dòng sông Hương thơ mộng, và cách không xa ngôi chùa Thiên Mụ nổi tiếng.

Cổng vào với kiến trúc cổ kính, ẩn dưới cây xanh, có những hoa văn và câu đối khảm bằng sành sứ. Trên cổng là 2 chữ Hán “An Hiên”

Vùng đất Kim Long có một lịch sử lâu đời và là tiền đề cho sự ra đời của nhiều ngôi nhà vườn tạo nên một hệ thống nhà vườn đặc sắc. Từ giữa thế kỷ 17, chúa Nguyễn Phúc Lan đã chọn nơi này làm thủ phủ xứ Đàng Trong, và vùng đất này trở nên phồn thịnh. Bên cạnh những hoàng cung lộng lẫy là dinh cơ, phủ đệ của những ông hoàng bà chúa và giới thượng lưu.

Tới thời nhà Nguyễn (1802-1945), vua Gia Long đã xây kinh thành mới ở khu vực làng Phú Xuân kế đó không xa. Với việc xây dựng một kinh đô mới, cùng với việc phát triển cấu trúc đô thị phong kiến, khu vực Kim Long không vì thế mà kém vị thế, lại càng trở nên phù hợp để xây dựng những cơ ngơi riêng của hoàng tộc và quan lại triều đình. Khu vực này rộng rãi, thoáng đãng, có giá trị lịch sử và cảnh quan đẹp, giao thông thuận tiện và cách trung tâm đô thị – kinh thành một cự ly thích hợp. Bởi lẽ đó, Kim Long thu hút càng nhiều những thế gia vọng tộc. Nhà vườn An Hiên cũng như nhiều nhà vườn khác ở nơi đây được ra đời trong bối cảnh ấy.

Kiến trúc chính là ngôi nhà rường 3 gian 2 chái, với hồ nước lớn xây bằng gạch ở phía trước.

Nhà vườn An Hiên có lịch sử khá lâu đời, và dù mang tên An Hiên, nhưng lại có số phận thăng trầm và qua tay nhiều chủ nhân. Theo tài liệu của gia đình, thì trước năm 1895, gia chủ sớm nhất là một công chúa con vua Dục Đức (khi đó dinh cơ này là phủ công chúa). Người chủ tiếp theo là ông Phạm Đăng Khanh (còn gọi là Phạm Đăng Thập), cháu của đại thần Phạm Đăng Hưng thời Gia Long. (ông Khanh là cháu gọi bà Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ (Phạm Thị Hằng), con gái đại thần Phạm Đăng Hưng) bằng cô ruột. Năm 1920, ông Khanh bán toàn bộ khu vườn nhà cho người chủ nhân mới là bà Khâm Điệp. Năm 1936, ông Tham Tề – con trai bà Khâm Điệp bán cho ông Tuần Vũ Nguyễn Đình Chi (bấy giờ giữ chức Tuần phủ Hà Tĩnh). Ông Nguyễn Đình Chi mất năm 1940 ở tuổi 51. Vợ ông là bà Đào Thị Xuân Yến thừa kế và tiếp tục quản lý, gìn giữ khu nhà vườn. Chính bà là chủ nhân lâu nhất, gìn giữ toàn vẹn nhất và đã nâng cao giá trị nhà vườn An Hiên cho tới khi bà qua đời vào năm 1997. An Hiên đã gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của người nữ chủ nhân này – một người yêu nước, một nhà hoạt động chính trị xã hội đã có nhiều đóng góp cho quê hương Huế. Năm 1927, bà Đào Thị Xuân Yến là người cầm đầu cuộc bãi khóa chống thực dân Pháp của nữ sinh trường Đồng Khánh. Bà là người phụ nữ Trung Kỳ đầu tiên đậu tú tài Tây ở tuổi 24. Về sau bà trở thành Hiệu trưởng đầu tiên của trường Đồng Khánh, rồi là đại biểu quốc hội khóa VI, VII, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Bà cũng là người phụ nữ Việt Nam đại diện cho đất nước tham gia nhiều hội nghị, diễn đàn quốc tế. Bà được coi là nhân vật lịch sử, nhân chứng tiêu biểu ở đất Huế trong thế kỷ 20. Nhưng cũng chính trong thời gian An Hiên thuộc sở hữu của bà Đào Thị Xuân Yến, thì phần lớn thời gian đất nước chiến tranh. Những biến động thời cuộc ở Huế cũng ảnh hưởng không nhỏ đến ngôi nhà. Có thời gian An Hiên đã đóng cửa bỏ hoang, và chịu nhiều hư hỏng, mất mát.

Ngôi nhà rường, nhìn từ vườn sau

Sinh thời, ông Nguyễn Đình Chi cùng bà là những người có học thức, có uy tín trong xã hội. An Hiên là tư gia và cũng là nơi lui tới của nhiều nhân sỹ trí thức, tao nhân mặc khách. Mặc nhiên, An Hiên chứa đựng cả những giá trị văn hóa tinh thần, cốt cách sống của những con người đáng trọng.

Sau ngày đất nước thống nhất (1975) cho tới khi bà Đào Thị Xuân Yến qua đời (1997), An Hiên, hay còn được gọi là nhà vườn bà Tuần Chi trở thành một địa chỉ văn hóa của đất cố đô. Nơi đây chủ nhân đã đón tiếp hàng ngàn lượt các đoàn khách văn hóa, ngoại giao, khách du lịch trong và ngoài nước…

Ông bà Nguyễn Đình Chi có một người con trai duy nhất là Nguyễn Đình Ký mất sớm. Hiện nay, nhà vườn An Hiên thuộc quyền thừa kế của người con dâu Phan Thị Hoàng Oanh và bốn người cháu nội (hiện đang sinh sống tại Pháp)

Tấm bình phong trước nhà có hoa văn hình chữ “Thọ”

Kiến trúc mẫu mực hòa mình vào thiên nhiên

An Hiên là một kiến trúc tiêu biểu, mẫu mực của nhà vườn xứ Huế, hòa quyện cùng thiên nhiên và được quy hoạch tuân thủ theo đúng những nguyên tắc phong thủy của kiến trúc truyền thống Phương Đông. Hướng chính của nhà quay ra phía sông Hương. Toàn bộ khuôn viên có hình gần vuông, rộng gần 5000m2, luôn xanh ngắt màu cây lá. Cổng của khu nhà vườn phía ngoài có dáng vẻ khiêm nhường, ẩn sau những vòm cây rợp bóng. Cổng được xây bằng gạch cuốn vòm với những đường nét cổ kính đặc trưng của kiến trúc Huế. Phần cuốn vòm trên cánh cổng có trang trí hình hổ phù, hai bên trụ cổng là đôi câu đối, phía trên vòm cổng là một bức hoành cuốn thư nổi có hai chữ AN HIÊN. Tất cả các chi tiết trang trí này đều được khảm sành sứ. Phía trên cổng là hình hai con dơi sải cánh. Hai cánh cổng gỗ có kiến trúc “thượng song hạ bản” mở ra dẫn vào bên trong…

Từ cổng vào nhà đi qua một lối nhỏ dưới những vòm cây mơ đan vào nhau, tạo nên chiều sâu và một cảm giác tĩnh lặng, trang nghiêm. Bố cục của ngôi nhà và các hạng mục phụ trợ cùng khu vườn rất chặt chẽ, hợp lý với tỷ lệ kiến trúc đẹp, phù hợp cảnh quan. Phía trước nhà, nơi kết thúc lối đi với hai hàng mơ là một tấm bình phong có vai trò như một “tiền án” trước nhà. Tấm bình phong có kiến trúc thanh thoát, nhẹ nhàng, ở giữa có hình chữ “thọ”, hai bên có hai chữ “song hỷ”. Phía trong, sau bức bình phong, trước ngôi nhà là một bể nước thả hoa súng; đây là yếu tố “minh đường” trong phong thủy. Kiến trúc chính là một ngôi nhà rường 3 gian 2 chái nằm gần như ở trung tâm khu vườn. Ngôi nhà rộng 135m2, có kiến trúc mẫu mực của kiến trúc truyền thống nói chung và thể loại nhà rường Huế nói riêng. Toàn bộ hệ khung kết cấu nhà được làm bằng gỗ, liên kết mộng hoàn toàn. Có tất cả 48 cột, cùng hệ thống vì kèo được làm bằng gỗ mít; đòn tay gỗ kiền kiền; ván ngăn trong nhà gỗ lim. Các cột được gối trên những bệ đá hình vuông. Hệ thống vì kèo được chạm trổ hoa văn tinh xảo. Mái lợp ngói liệt nhiều lớp, bờ nóc hai bên đắp rồng chầu, ở giữa đỉnh mái có hình hoa sen.

 

Chi tiết trang trí trên bờ mái
Hiên nhà với những hàng cột gỗ kê trên chân tảng hình vuông

Không gian nội thất của ngôi nhà được phân chia rõ ràng theo chức năng sử dụng. Gian giữa là gian thờ, với nguyên tắc bài trí: “tiền Phật hậu linh” (thờ Phật phía trước, thờ tổ tiên phía sau), hai gian hai bên là nơi tiếp khách theo nguyên tắc “tả nam hữu nữ” (nam bên trái, nữ bên phải), hai chái nhà cũng tương tự, là nơi ở và sinh hoạt của nam (bên trái) và nữ (bên phải), theo quan niệm xưa thời phong kiến. Điều đặc biệt, ngôi nhà có nhiều kỷ vật rất quý của cung đình triều Nguyễn. Đó là bức hoành phi đề 4 chữ “Văn Võ Trung Hiếu” do vua Bảo Đại ban cho gia đình năm 1937, hiện đang treo ở gian giữa, và nhiều bài thơ của Vua Thành Thái, hiện cũng được treo ở nơi tiếp khách trong nhà.

Sau này, do nhu cầu tiếp khách cũng như dành ngôi nhà thành nơi tham quan, bà Tuần Chi đã cho dựng một nếp nhà khác bên mé trái ngôi nhà rường bên cạnh để ở và sinh hoạt. Căn nhà mới này có kiến trúc kiểu Pháp.

Hoa văn chạm trổ tinh tế ở kèo hiên
Nội thất gian giữa nhà rường, đây là gian thờ phụng
Bộ khung với kết cấu gỗ chuẩn mực của thể loại kiến trúc nhà rường. Không gian rất lớn về cả chiều rộng và chiều sâu
Bức hoành phi đề 4 chữ “Văn Võ Trung Hiếu” do vua Bảo Đại ban năm 1937
Lòng nhà sâu với 5 hàng cột
Góc nhìn từ trong nhà ra ngoài sân
Góc ký ức của ngôi nhà

Chốn bình yên với cây cối 3 miền, hoa trái 4 mùa

Không chỉ là một ngôi nhà đặc biệt lưu dấu nhiều thế hệ danh gia vọng tộc; không chỉ là một công trình kiến trúc đẹp hòa quyện cùng cảnh quan thơ mộng; An Hiên thực sự còn là một không gian sinh thái, một vườn cây đây hương sắc của 3 miền đất nước với hoa trái 4 mùa.

Cây hồng do cụ Nghè Mai, chắt nội của đại thi hào Nguyễn Du, từ quê nhà Nghi Xuân (Hà Tĩnh) mang tặng Tuần vũ Nguyễn Đình Chi

Nhiều hàng cây, gốc cây nơi đây đã có hàng chục năm tuổi, như hàng mơ ở lối vào được trồng từ những năm 1940. Nhiều loại cây ăn quả, nhiều giống cây quý hiếm khắp 3 miền cũng được đưa về đây tụ hội. Có thể kể tới những măng cụt, sầu riêng, thanh long… của miền nam; mơ, hồng, vài thiều… của miền bắc; thanh trà, dâu, vả… của miền trung và Huế. Có những gốc cây thật đặc biệt, như cây hồng xiêm Tiên Điền do cụ Nghè Mai – chắt nội đại thi hào Nguyễn Du mang từ quê hương Nghi Xuân – Hà Tĩnh tặng Tuần Vũ Nguyễn Đình Chi. Đây là một loài hồng quý, không có hột, rẩt thơm ngon. Hay có thể kể tới 13 gốc măng cụt Giang Châu, một loại quả quý nổi tiếng xứ Huế chuyên được dâng cho vua…

Cây vả – một loài cây rất đặc trưng của xứ Huế trong vườn An Hiên

Bên cạnh cây ăn quả là các loài hoa. Vườn An Hiên cũng là một vườn hoa. Mùa xuân hoa mơ nở trắng lối vào, mùa hè hoa súng nở đỏ trên mặt nước… Và bao nhiêu loài hoa khác thay nhau nở 4 mùa: trà my, mộc, mẫu đơn, nhài, hải đường, thạch lựu, sứ, thủy tiên, ngọc lan, tường vy, thiên lý, hoàng mai, bạch mai… Phía bên ngôi nhà mới là một giàn với phong lan với hàng chục loài khoe sắc.

Hơn một trăm năm, An Hiên đã trải qua bao đời chủ nhân, trải qua bao thăng trầm của lịch sử và sự khắc nghiệt của thời gian. Đã có những lúc nơi này bỏ hoang không người ở, ngôi nhà bị nhiều mất mát, hư hại. Dẫu vậy thì cho đến ngày hôm nay, An Hiên đã chứng minh được sức sống bền bỉ, cũng như một giá trị kiến trúc – văn hóa – tinh thần sâu sắc. Ngôi nhà cũng là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp, là nơi tỏa sáng của một người phụ nữ xuất chúng, người con xứ Huế – bà Tuần Chi – Đào Thị Xuân Yến. Giờ đây nhà vườn An Hiên là một chốn bình yên, một địa chỉ văn hóa của đất cố đô. Ở nơi này, người ta có thể cảm nhận được một thế giới khác cuộc sống bên ngoài: sâu hơn, chậm hơn và bình lặng hơn. Đó là một không gian êm đềm, thư thái, một nơi chốn thâm trầm và yên tĩnh. Đó là nơi giao hòa thiên nhiên và con người, là nơi lắng lại để trở về với quá khứ…

Nhà vườn An Hiên tiêu biểu cho những nhà vườn xứ Huế và giá trị văn hóa Huế. Đó cũng là một nét riêng biệt của Huế trong văn hóa kiến trúc đô thị ở Việt Nam. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, cũng là một nhà nghiên cứu về Huế từng viết: “…Người Huế lập vườn, trước hết như là nơi cư ngụ của tâm hồn mình giữa thế gian, ước mong chỉ là chút di sản tinh thần để lại cho con cháu mai sau…”

Bài và ảnh: Hà Thành

© Tạp chí kiến trúc