Giá trị kiến trúc đô thị đặc trưng của khu vực trung tâm lịch sử Sài Gòn – TP.Hồ Chí Minh

Ngày Xuân, trên tinh thần “ôn cố tri tân”, chúng tôi muốn được chia sẻ với độc giả TCKT các nét đặc trưng kiến trúc đô thị của khu vực trung tâm lịch sử Sài Gòn (địa bàn quận 1, quận 3), mà xuyên thời gian, đã trở thành bản sắc, đồng thời phác họa vài nét ký ức về một Sài Gòn – “Hòn ngọc Viễn Đông” trong quá khứ và chân dung trung tâm hiện hữu TP HCM năng động hiện nay.

Di sản kiến trúc

Bản đồ Sài gòn xưa

Với một cái nhìn khái quát, giá trị di sản kiến trúc trung tâm hiện hữu TP HCM được phản ánh qua ba dấu ấn tiêu biểu: Mô hình tiếp biến kiến trúc dân gian đô thị, kiến trúc phương Tây, kiến trúc Hiện đại nhiệt đới hoá.

Dấu ấn của phố thị Sài Gòn truyền thống đã và đang tiếp tục được chuyển tải thông qua các biểu hiện đa dạng của kiến trúc nhà ống đô thị, với tính chất gắn kết, tương tác với đường phố trong tổ chức không gian. Thông qua quá trình liên tục được cải tạo hoặc xây mới, nhà phố trở thành minh hoạ sống động cho những đổi thay của lối sống, và thể hiện được khả năng thích ứng linh hoạt trong mọi diễn biến của các thời kỳ đô thị hoá, góp phần tạo nên tính tiếp nối lịch sử cho tiến trình phát triển đô thị tại TP HCM.

Dấu ấn kiến trúc phương Tây được thể hiện qua một số lượng lớn các công trình kiến trúc do người Pháp xây dựng tại Sài Gòn. Trong tập hợp này có những di tích, di sản kiến trúc mang nhiều giá trị nghệ thuật nổi bật, những điểm nhấn kiến trúc quan trọng hàng đầu tại trung tâm hiện hữu, tạo nên hình ảnh Sài Gòn – Hòn ngọc Viễn Đông một thời vang bóng.

Di sản kiến trúc Pháp tại TP HCM phản ánh bề dày lịch sử phát triển cả trăm năm, với nhiều phong cách, trào lưu đa dạng: Kiến trúc doanh trại tiên kỳ, phong cách Tân Cổ điển, kiến trúc Chiết trung, kiến trúc Đông Dương, Art Deco… Hành trình kiến trúc này thể hiện khá rõ nét tiến trình hội nhập và giao lưu giữa văn hoá phương Tây với văn hoá bản địa. Phong cách Tân cổ điển ghi dấu ấn những công trình hoành tráng, đồ sộ, mang tính biểu tượng cả về nghệ thuật và quyền lực nhưng còn xa lạ với bối cảnh địa phương. Bước sang thế kỉ 20, phong cách kiến trúc Đông Dương đánh dấu sự chuyển hướng về thiết kế, kết hợp yếu tố công năng và kỹ thuật phương Tây vào môi trường tự nhiên và văn hoá địa phương. Phong cách Art Deco phản ánh xu hướng cách tân, hiện đại hoá, góp phần củng cố tính chất đa dạng trong bối cảnh giao lưu văn hoá của thành phố.

Dấu ấn kiến trúc Hiện đại từ thập niên 1950 phản ánh sự hội nhập năng động với các trào lưu nghệ thuật hiện đại trên thế giới, góp phần làm thay đổi diện mạo kiến trúc Sài Gòn – TP HCM. Nhiều công trình đáp ứng tốt nguyên tắc công năng của trào lưu Hiện đại, nhưng không hoàn toàn bị đóng khung trong khuôn mẫu kiến trúc Quốc tế, mà tích hợp vào đó giải pháp thích ứng với điều kiện khí hậu địa phương, hình thành nên đặc điểm “kiến trúc Hiện đại nhiệt đới hoá”. Giai đoạn này ghi nhận nhiều thành tựu kiến trúc do chính đội ngũ KTS người Việt thiết kế, do người Việt thi công, vươn đến những chuẩn mực hiện đại quốc tế đương thời.

Giá trị phi vật thể của kiến trúc và cảnh quan đô thị

Tính chất giao lưu và hội nhập văn hoá của Sài Gòn TP HCM được phản chiếu rõ nét qua dấu ấn văn hoá của nhiều cộng đồng cư dân đa dạng trong chân dung kiến trúc đô thị. Các cộng đồng từ mọi miền đất nước và nhiều nơi trên thế giới đã mang đến nơi đây tiềm năng của nhiều vùng văn hoá có bề dày lịch sử lâu đời. Người Việt, Hoa, Khmère, Chăm, Pháp, Ấn Chetty, Âu…, trong quá trình hoà đồng và tương tác để phát triển, đã đóng góp các dấu ấn văn hoá của mình vào bức tranh tổng thể kiến trúc đa dạng của trung tâm TP.
Khu vực trung tâm hành chính tại quận 1, khu biệt thự quận 3 ghi dấu ấn của kiến trúc Pháp. Các khu phố chợ Cũ, chợ Bến Thành phản ánh hình ảnh kiến trúc đô thị theo tập quán đô thị tiền công nghiệp của người Việt, người Hoa. Điểm xuyết trong bức tranh đó là những khu phố baza và Thánh thất Bà – la – môn của người Chetty (Ấn Độ).

Trong bối cảnh giao lưu và tiếp biến văn hoá, thành tựu kiến trúc của các cộng đồng đã hợp thành một tổng thể mà ở đó xu thế kết hợp được thể hiện rõ nét hơn xu thế bảo thủ về phong cách. Bởi lẽ ở đây, các đặc điểm kiến trúc riêng biệt đã liên tục được cải tiến trong bối cảnh hội nhập và giao lưu với những yếu tố văn hoá mới. Kiến trúc đô thị Sài Gòn mang nhiều dấu ấn của kiến trúc Pháp, nhưng đồng thời kiến trúc Pháp tại đây cũng chịu nhiều ảnh hưởng của dấu ấn Sài Gòn, thể hiện qua nhiều công trình kiến trúc được thiết kế theo hướng thích ứng với điều kiện khí hậu Việt Nam, hài hoà với truyền thống mỹ thuật và văn hoá địa phương. [03]

Ở chiều ngược lại, nhiều công trình do KTS Việt Nam thiết kế từ những năm 1950 đã thể hiện khá rõ nét dấu ấn của các phong cách kiến trúc đương thời trên thế giới, từ ảnh hưởng của kiến trúc Pháp, và sau đó là kiến trúc Hiện đại trong bối cảnh giao lưu và hội nhập văn hoá trên vùng đất đô thị phương Nam.

Nhà thờ Đức Bà – Ký họa của: Hoàng Anh – SV ĐH Xây Dựng

Về chức năng, khu vực trung tâm hiện hữu đã được quy hoạch trên nền tảng phân khu vào buổi đầu đô thị hoá hiện đại giữa thế kỷ 19, nhưng vẫn tiếp tục được tích hợp thêm nhiều chức năng đa dạng khác trong quá trình phát triển mở rộng về sau. Chính thuộc tính mở và khả năng dung nạp các chức năng mới đã giúp cho trung tâm lịch sử không bị đóng khung trong phân khu chức năng dẫn đến triệt tiêu mọi phản xạ linh hoạt của đô thị.
Đây là nơi tập trung với mật độ cao các công trình nhà ở, hành chính, văn hoá, tôn giáo, thương mại, dịch vụ đẳng cấp, các trường học, cơ sở y tế lâu đời, các ngôi chợ truyền thống… Sự tích hợp đa dạng chức năng công trình đã tạo nên một định dạng sinh động cho cảnh quan đô thị.

Tại các đường phố trung tâm, gần như không có những khu vực “chết” do sự đơn điệu chức năng. Mà ngược lại, chính cấu trúc chức năng tích hợp, đan cài đa dạng đã tạo cho trung tâm thành phố không khí nhộn nhịp, sinh động vào cả ban ngày lẫn ban đêm, cả ngày nghỉ lẫn ngày làm việc, tạo nên sức sống cho đô thị và sức hấp dẫn đặc biệt về văn hoá.

Cảnh quan – bố cục mạng lưới đường phố

Mạng lưới đường tại trung tâm lịch sử Sài Gòn đã được phát triển dựa theo quy hoạch chặt chẽ. Chính do được nghiên cứu và xây dựng dựa trên quy hoạch, nên cùng với Chợ Lớn, mạng lưới đường xá tại đây có chất lượng cấu trúc vượt trội hơn hẳn so với các khu vực khác của TP, thậm chí còn cao hơn nhiều so với mật độ trung bình của các đô thị lớn trong khu vực như Singapore hoặc Bangkok. [01]

Bố cục mạng lưới đường và ô phố chủ yếu được định dạng ô cờ, lộ giới nhỏ, quy mô nhỏ, hài hòa với tỷ lệ con người. Mạng lưới ô cờ tạo ra khả năng tiếp cận linh hoạt và xuyên suốt. Sự đơn giản của nó tạo nên hình ảnh thân thiện cho không gian đường phố, tăng cường sức sống cho không gian đô thị.

Trung tâm hành chính quận 1 có nhiều công trình được bố cục theo nguyên tắc của chủ nghĩa cổ điển Pháp, nhấn mạnh tính chất đối xứng, dành vị trí điểm nhấn kết thúc các trục không gian lớn cho những công trình quan trọng nhất. Ví dụ như UBND TP HCM kết thúc trục Nguyễn Huệ, Nhà hát TP kết thúc trục Lê Lợi, hội trường Thống Nhất kết thúc trục Lê Duẩn, Nhà Thờ Đức Bà là chủ thể của không gian quảng trường Hoà Bình …
Khu biệt thự Pháp tại địa bàn quận 1, quận 3 là nơi toạ lạc các biệt thự đơn lập trên những lô đất lớn. Công trình có khoảng lùi sâu, được xây dựng tại vị trí trung tâm lô đất, với sân vườn và tường rào bao bọc.

Các khu thương mại sầm uất (dọc theo các đại lộ như Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Hàm Nghi), các khu nhà phố thấp tầng (dọc theo các khu chợ, các khu phố gần rạch Bến Nghé) có định dạng bố cục công trình liên kế, tạo nên hình ảnh đô thị thân thiện với cảm nhận rõ nét về tính chất “phố” của không gian.

Kiến trúc với sự tương tác giữa đường phố và công trình đã làm thúc đẩy nhịp điệu sinh hoạt đường phố. Khung cảnh đường phố với sắc thái sinh hoạt rộn ràng và thân thiện đậm chất “phố” chính là một nét hấp dẫn đặc biệt, một giá trị đặc trưng về văn hoá.

Đây là nơi chứa đựng hầu như toàn bộ biểu hiện đời thường của đời sống đô thị xuyên suốt dòng lịch sử của nó. Các chức năng đô thị hiện đại được pha trộn với những phương thức, tập quán sinh hoạt đô thị tiền công nghiệp; các hoạt động kinh tế chính quy hoà lẫn với hoạt động kinh tế “phi chính quy” trên không gian hè phố; các dòng người gặp gỡ, giao tiếp, mua bán, giao dịch; các chức năng đan cài và biến hoá theo không gian và cả thời gian.

Sắc thái sinh hoạt đời thường của không gian đường phố là một đặc trưng cảnh quan đô thị, và chính khía cạnh nhân văn của khung cảnh đó, xuyên qua thời gian đã tạo nên hồn của phố, trở thành một phần tài nguyên văn hoá tinh thần, hình thành nên ký ức về nơi chốn của trung tâm TP.

Các không gian công cộng

Trục đường hoa Nguyễn Huệ – TP HCM- Ảnh: KTS Huỳnh Tiến Thức

Trung tâm hiện hữu là nơi có nhiều quảng trường lâu đời như quảng trường Mê Linh, Lam Sơn, quảng trường UBND, Hoà Bình, Quách Thị Trang…

Phần lớn các quảng trường này đều có “tỷ lệ nhỏ nhắn”, phù hợp với tỷ lệ con người, và đều gắn với những di tích, di sản kiến trúc nổi bật của TP. Vì vậy, không gian quảng trường vừa có ý nghĩa văn hóa lịch sử, vừa có giá trị nghệ thuật cao, tạo nên những quần thể kiến trúc đô thị đặc biệt quan trọng tại trung tâm lịch sử.
Trung tâm lịch sử Sài Gòn cũng là nơi tập trung hầu hết các công viên lớn và lâu đời nhất của thành phố. Các công viên lớn nhất là Thảo Cầm viên ra đời năm 1864, Tao Đàn năm 1869. Hai công viên này nối kết với Hội trường Thống Nhất và công viên 30 tháng 4, tạo nên một trục công viên liên hoàn tuyệt đẹp, một không gian “di sản xanh” nổi bật của TP.

Tại các công viên và đường phố trung tâm, sự hiện diện của các hàng cây lâu năm đã tạo nên một cảm nhận rõ nét về ký ức đô thị. “Những cây me của các đô đốc” như cách gọi của người Pháp ở Sài Gòn xưa, nay vẫn còn in bóng trên đường phố. Cây trồng với khoảng cách dày có tác dụng làm dịu cái nắng oi bức của miền nhiệt đới. Chủng loại cây trồng đa dạng, nhưng để lại dấu ấn đậm nét nhất vẫn là các đường phố với những hàng me, sao, dầu.[02]

Cảnh quan – không gian sông nước

“Lịch sử đô thị hoá tại Sài Gòn – TP HCM luôn gắn liền với dấu ấn của những dòng sông và kênh rạch” – Trung tâm Sài Gòn gần như được sinh ra giữa những dòng sông, vì nó được ôm trọn bởi các dòng nước sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé, rạch Thị Nghè.

Sự khác biệt giữa TP HCM với các đô thị lớn khác phụ thuộc vào mối quan hệ giữa yếu tố sông nước với không gian kinh tế của đô thị. Tại các đô thị truyền thống miền Bắc (ví dụ như Hà Nội) và miền Trung (ví dụ như Huế), các cảng thị, dù là cảng biển hay cảng sông, về thực chất chỉ là những bến chợ trung chuyển không gắn liền với trung tâm kinh tế và sản xuất hàng hoá. Tại Sài Gòn, hệ thống sông rạch, cảng thị luôn là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất kinh tế, giao lưu hàng hoá và tập trung cư dân đô thị.

Khác với Hà Nội, nơi dòng sông Hồng rộng mênh mông ngăn cách các vùng đất ở hai bờ, các dòng sông rạch tại Sài Gòn thì ngược lại, chúng hoà mình vào đô thị, tham gia vào cấu trúc và tiến trình phát triển của thành phố. Trong tiến trình phát triển này, nhiều yếu tố tạo thị đã vĩnh viễn mất đi, nhiều yếu tố mới nảy sinh, chỉ các dòng nước là chứng minh được khả năng tồn tại mạnh mẽ nhất trước những đổi thay của con người và lịch sử. Và do đó, sông nước đã trở thành một đặc trưng không chỉ về cảnh quan tự nhiên, mà còn là nhân tố tạo nên bản sắc văn hoá của thành phố.

Do là yếu tố xuất hiện trước, sông nước đã định vị và định hướng cho không gian xây dựng. Một mặt nó khoanh vùng giới hạn không gian kiến trúc đô thị của trung tâm lịch sử. Mặt khác, nó là khoảng lặng vô giá làm giảm nhẹ mật độ xây dựng của khu vực trung tâm. Sông Sài Gòn tựa như một dải lụa mềm mại, hiền hoà giữa lòng đô thị. Các đường nước tạo nên khung cảnh sinh hoạt “trên bến dưới thuyền” tiêu biểu một thời, nếu được nghiên cứu kết nối vào hệ thống không gian mở, sẽ là cơ hội để phục hồi, tái tạo hình ảnh đô thị sông nước của tương lai.

Kết luận

TP HCM đang có những cơ hội mới. Các nhà lãnh đạo TP đang kỳ vọng TP HCM sẽ có bước phát triển vượt bậc trong thời gian tới, giành lại vị thế “Hòn ngọc Viễn đông”. Hướng đến mục tiêu xây dựng trung tâm hiện hữu thành nơi mà những lớp giá trị văn hoá cũ và mới, những lớp cảnh quan kiến trúc đô thị xưa và nay cộng sinh trong một quá trình phát triển tiếp nối, việc nhận dạng các giá trị kiến trúc đô thị đặc trưng của khu vực trung tâm xuyên qua dòng chảy lịch sử của nó là một nhu cầu thiết thực trong bối cảnh phát triển hiện nay.

TS.KTS. PHẠM PHÚ CƯỜNG
Đại học Kiến trúc TP HCM

(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 01-2018)

–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nikken Seikkei, Viện Quy hoạch xây dựng TP HCM (2007), Nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng TP HCM đến năm 2025, TP HCM
2. Trần Hữu Quang (2012), Hạ tầng đô thị Sài Gòn buổi đầu, Nxb Tổng hợp TP HCM, TP HCM.
3. Nguyễn Hữu Thái, Võ Đình Diệp (1987), “Tổng quan về kiến trúc thành phố”, Địa chí văn hoá TP HCM, tập III, Nxb Tổng hợp TP HCM, TP HCM.