Nghiên cứu tái thiết Điện Cần Chánh, Hoàng Thành Huế – (Phần 2)

Quần thể Di tích Cố đô Huế là di sản văn hoá đầu tiên của Việt Nam được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới vào tháng 12/1993 với giá trị nổi bật toàn cầu và được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại. Với nỗ lực của tỉnh Thừa Thiên Huế, sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương và sự hỗ trợ đắc lực của cộng đồng quốc tế, Quần thể Di tích Cố đô Huế đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng, đang trên đà ổn định và phát triển.

Hình 1. Bản vẽ mặt bằng và mặt cắt Tháp Đông chùa Yakushiji, Nara, Nhật Bản (nguồn: Lab. Lịch sử kiến trúc, Viện Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản)

Có 3 công ước quốc tế được xem là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng liên quan đến lĩnh vực này bao gồm: Công ước Venice 1964 (International Charter for the Conservation and Restoration of Monuments and sites), Công ước Nara 1994 (The Nara Document on Authenticity) và Công ước Bura 1999 (The Australia ICOMOS Charter for the Conservation of Places of Cultural significance), trong đó Công ước Nara 1994 có khả năng ứng dụng đối với đặc trưng của Quần thể Di tích Cố đô Huế.

Bài viết này đề cập đến các khái niệm cơ bản được chắt lọc từ các văn bản pháp lý quốc tế về bảo tồn di sản văn hoá và luật Di sản văn hoá Việt Nam, nhằm diễn giải nội hàm khái niệm Bảo tồn, Trùng tu và Tái thiết di sản, góp phần định hướng thiết lập các dự án bảo tồn trong tương lai. Ngoài ra, thông qua bài nghiên cứu này, chúng tôi đề xuất khái niệm “Mã lưu truyền” (Transmision Code) và khái niệm “DNA Di sản” (Heritage DNA) như là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo nhằm thiết lập công thức lưu truyền văn hóa thông qua di sản kiến trúc.

Hình 2/ảnh trái. Tháp Đông (Yakushiji) (nguồn: https://yakushiji.or.jp); Hình 3/ảnh phải. Tháp Tây (Yakushiji) (nguồn: https://yakushiji.or.jp)

Công ước quốc tế và luật di sản văn hoá Việt Nam

Cho đến nay đã có nhiều công ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực bảo tồn di sản văn hoá đã được UNESCO thông qua, sớm nhất là công ước Athens 1931 (The Athens Charter for the Restoration of Historic Monuments) và gần đây nhất là Công ước Zimbabwe 2003 (Principles for the Analysis, Conservation, and Structural Restoration of Architectural Heritage). Để thiết lập phương pháp luận nghiên cứu tái thiết di sản đối với Di tích Huế, chúng tôi chú trọng vận dụng các điều khoản của 3 công ước quốc tế quan trọng là: Công ước Venice 1964 (International Charter for the Conservation and Restoration of Monuments and sites), Công ước Nara 1994 (The Nara Document on Authenticity) và Công ước Bura 1999 (The Australia ICOMOS Charter for the Conservation of Places of Cultural significance). Trong đó, Công ước Nara 1994 rất quan trọng có khả năng ứng dụng toàn diện đối với đặc trưng của Di tích Huế.

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu Luật Di sản Văn hoá Việt Nam và các văn bản dưới Luật là không thể thiếu được nhằm xác định cấp độ và loại hình di sản của đối tượng nghiên cứu, tuân thủ luật pháp Việt Nam đồng thời đảm bảo sự chuẩn mực trong công tác bảo tồn di sản văn hoá theo tiêu chí của các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia vào năm 1987.

Ngoài ra, để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi còn tham khảo sách xuất bản của các học giả nguyên là chuyên gia ICOMOS và UNESCO, cụ thể là sách “Nhận biết, Bảo tồn và Quản lý Di sản” (Heritage Identification, Conservation, and Management, Graeme Aplin, ISBN 019551297-9) và “Từ điển minh hoạ về Kiến trúc Bảo tồn” (Illustrated Dictionary of Architectural Preservation, Ernest Burden, ISBN 0-07-142838-0). Từ những công ước quốc tế, Luật Di sản Văn hoá Việt Nam và sách xuất bản nêu trên, chúng tôi tập trung phân tích những từ khoá (keyword) quan trọng liên quan đến các vấn đề sẽ được đề cập trong nghiên cứu này nhằm làm rõ nội hàm khái niệm, giúp thiết lập phương pháp luận nghiên cứu tái thiết di sản kiến trúc phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và của Di tích Huế, đặc biệt là đối với công trình di sản kiến trúc Điện Cần Chánh.

Công ước Nara 1994 về “tính chân xác” và khả năng ứng dụng

Hội thảo Nara về Tính Chân Xác được tổ chức tại TP Nara, Nhật Bản vào tháng 11/1994, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO, tổ chức CCROM và ICOMOS đã chính thức thông qua Công ước Nara 1994 về Tính Chân xác (Nara Documents on Authenticity, gọi tắt là Công ước Nara).

Công ước Nara gồm 13 điều và 02 phụ lục, trong đó bổ sung khái niệm Đa dạng Văn hóa (Cultural Diversity) và Đa dạng Di sản (Heritage Diversity), Giá trị (Values) và Tính Chân Xác (Authenticity) được hình thành trên tinh thần Công ước Venice 1964. Theo đó, rất rõ để nhận biết rằng Công ước Nara đã đồng thời triển khai 02 hạng mục lý luận quan trọng giúp mở rộng các khái niệm cốt lõi trong bảo tồn di sản văn hóa trên toàn thế giới.

1. Đa dạng Di sản và Đa dạng Văn hoá

Về mặt biện chứng, đa dạng di sản là hệ quả tất yếu của đa dạng văn hóa, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của UNESCO: Di sản văn hóa của mỗi cộng đồng là di sản văn hóa của tất cả cộng đồng nhân loại (Nara 1994, điều 8). Vì vậy, sự đa dạng của các nền văn hóa và di sản trong thế giới của chúng ta là nguồn tài nguyên phong phú về trí tuệ và tinh thần không thể thay thế, và việc bảo vệ, tăng trưởng sự đa dạng về văn hóa và di sản cần được thúc đẩy mạnh mẽ như một khía cạnh thiết yếu của sự phát triển con người” (Nara 1994, điều 5).

Theo đó, sự phát triển của xã hội loài người nói chung và của mỗi cộng đồng dân tộc nói riêng chú trọng vào sự kế thừa lịch sử và truyền thống của mỗi dân tộc. Sự đa dạng di sản sẽ làm phong phú và bảo đảm nguồn gen văn hóa tươi mới để mỗi cộng đồng dân tộc phát triển bền vững. Khái niệm đa dạng văn hóa và đa dạng di sản được đề cập trong Công ước Nara đã mở rộng khuôn khổ xác định, thẩm định và công nhận di sản, từ đó nhiều loại hình kiến trúc truyền thống và các công trình kiến trúc bản địa được tạo nên thông qua quá trình tiếp biến văn hóa trong quá khứ đều có thể là ứng cử viên cho di sản văn hóa của quốc gia ấy, hoặc di sản văn hóa thế giới.

2. Giá trị và Tính Chân Xác

Hình 4. Sách cổ “Kiwari shou” của thợ mộc Nhật Bản (nguồn: Catalog Nabunken, 2004)

a) Giá trị (Values)

Di sản văn hoá thường bao gồm các nhóm giá trị sau đây (Feilden, ISBN 0-7506-5863-0):

  • Giá trị tình cảm bao gồm: Giá trị kỳ quan, bản sắc, tính liên tục của truyền thống, sự ngưỡng mộ, lòng tôn kính, sự cao cả của biểu tượng và sự sâu sắc về tinh thần;
  • Giá trị văn hóa bao gồm: Giá trị tư liệu, lịch sử, khảo cổ và niên đại, thẩm mỹ và kiến trúc, cảnh quan và sinh thái, khoa học và công nghệ, truyền thống và tâm linh;
  • Các giá trị sử dụng trong tương lai bao gồm: Giá trị công năng, kinh tế, xã hội, giáo dục, chính trị và thương hiệu văn hoá.

Các giá trị nêu trên được thẩm định, công nhận sau khi di sản đã được sản sinh, đây cũng là những tiêu chí cơ bản để đánh giá, công nhận cấp độ và loại hình di sản văn hóa của mỗi cộng đồng dân tộc và cộng đồng thế giới.

Công ước Nara làm rõ nguồn gốc của các giá trị này thông qua khái niệm giá trị cấu thành di sản, bao gồm toàn bộ các khía cạnh vật chất (tangible) và tinh thần (intangible) của chúng để tạo nên các giá trị đó thể hiện rõ ràng bằng sự đa dạng của di sản văn hóa tồn tại trong thời gian và không gian mà trong đó ẩn chứa tất cả các khía cạnh tâm linh khác cần được tôn trọng (Nara 1994, điều 6). Ngoài ra, việc bảo tồn di sản văn hóa dưới mọi hình thức và các giai đoạn lịch sử được bắt nguồn từ các giá trị do di sản mang lại (Nara 1994, điều 9).

Như vậy, có thể nhận định rằng: Trước khi di sản và các giá trị của nó được sản sinh thì đã tồn tại mầm mống di sản tiềm ẩn bên trong truyền thống của cộng đồng dân tộc sản sinh ra nó. Có lẽ, đây là sự đề xuất quan niệm táo bạo và hoàn toàn xác đáng xuất phát từ truyền thống và thực tế bảo tồn, tôn tạo di sản văn hóa Nhật Bản, phạm vi của nó không chỉ giới hạn trong khuôn khổ địa giới hành chính của đất nước Nhật Bản mà còn có thể vượt không gian và thời gian để lan tỏa sang nhiều quốc gia khác.

b) Tính Chân xác (Authenticity)

Khái niệm tư liệu chân xác về di sản lần đầu tiên được đề cập trong Công ước Venice 1964, nhưng nó chỉ giới hạn trong khuôn khổ các tài liệu chứng minh nguồn gốc và thông tin đáng tin cậy về di tích kiến trúc để phục vụ cho các hoạt động trùng tu, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị thẩm mỹ và văn hoá lịch sử của di tích đó dựa trên sự tôn trọng tài liệu gốc và tính xác thực của các nguồn tài liệu cung cấp (Venice 1965, điều 9). Ngoài ra, có quan điểm khác cho rằng tính xác thực có nghĩa là hiểu rõ động cơ của hành động tự chủ trong sáng tạo, có thẩm quyền sở hữu, nguyên bản, độc đáo, đúng và và xác thực của chủ thể sáng tạo (Jokilehto, ISBN 0-7506-5511-9).

Tuy nhiên, tính chân xác được đề cập trong Công ước Nara rằng: Tùy thuộc vào bản chất của di sản văn hóa, bối cảnh văn hóa và sự phát triển của nó thông qua lịch sử, các đánh giá về tính chân xác có thể được liên kết với giá trị của nhiều nguồn thông tin khác nhau. Các khía cạnh của nguồn thông tin đó có thể bao gồm hình thức và thiết kế, vật liệu và nội dung, sử dụng và chức năng, truyền thống và kỹ thuật, vị trí và bối cảnh, tinh thần và cảm giác, và các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài khác (Nara 1994, điều 13). Biểu hiện cụ thể bao gồm:

  • Sự minh chứng xác thực bằng tư liệu: Tư liệu lịch sử chính thống (chính sử) và các nguồn sử liệu tham khảo tin cậy; nguyên lý và phương pháp thiết kế kiến trúc truyền thống; sự hiểu biết thấu đáo về kỹ thuật và công nghệ xây dựng truyền thống;
  • Sự xác thực về vật liệu xây dựng, hình thức kiến trúc, cấu trúc và khả năng duy trì;
  • Tính nguyên vẹn và liên tục của kỹ thuật truyền thống và khả năng ứng dụng.

Theo đó, tính chân xác được hiểu theo tinh thần của Công ước Nara là yếu tố định tính thiết yếu liên quan đến các giá trị, tính xác thực và tính liên tục của truyền thống thông qua di sản kiến trúc, đóng vai trò nền tảng trong tất cả các nghiên cứu khoa học về di sản văn hóa, các dự án bảo tồn, trùng tu và tái thiết di sản (Nara 1994, điều 10). Vì vậy, nội hàm của tính chân xác theo Công ước Nara rất rộng về lượng và quan trọng về chất, mở ra triển vọng lớn cho khả năng thích ứng kỹ thuật công nghệ cho việc tái thiết các di sản kiến trúc gỗ đã bị mất của nhiều quốc gia khác trên thế giới nếu xét thấy chúng cùng hệ tham chiếu văn minh và văn hoá.

Những khái niệm cơ bản trong công tác bảo tồn di sản văn hoá

1. Khái niệm và nội hàm khái niệm

Bàn về công tác bảo tồn, trùng tu và tái thiết di sản văn hoá không thể không nhắc đến Công ước Bura 1999. Công ước này đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể cho việc bảo tồn và quản lý các di sản văn hóa dựa trên những nội dung cơ bản của Công ước Venice 1964. Công ước Bura được Ủy ban Quốc gia ICOMOS của Úc thông qua vào tháng 8/1979, được sửa đổi vào tháng 2/1981, tháng 4/1988 và tháng/1999. Các phạm trù khái niệm được đề cập xuyên suốt bài báo này bao gồm Bảo tồn (Conservation), Trùng tu (Restoration) và Tái thiết (Reconstruction) mà đối tượng mục tiêu là Di sản Kiến trúc sẽ được đề cập sau đây.

a. Di tích và Di sản

Khái niệm Di tích (Monument) được định nghĩa hẹp và cụ thể: “Di tích có thể là một tảng đá, cột trụ, địa điểm khảo cổ, công trình kiến trúc hoặc một hình hài vật chất công trình lịch sử được dựng lên để tưởng nhớ một người đã khuất, một sự kiện hoặc một hành động đã xảy ra, và cũng là điểm đánh dấu vĩnh viễn chẳng hạn như một cột đá đánh dấu ranh giới được sử dụng để định vị con đường hoặc góc giới hạn khu di tích” (Burden, ISBN 0-07-142838-0). Do đó, có nhiều loại hình di tích đã được xác định như di tích lịch sử – văn hóa, di tích khảo cổ, đài tưởng niệm hòa bình, tượng đài chiến thắng, tượng đài danh nhân văn hóa.

Trong khi đó, khái niệm Di sản (Heritage) chắc chắn hàm ý một món quà cho thế hệ tương lai và cho lợi ích kinh tế cho cộng đồng (Aplin, ISBN 019551297-9), hoặc Di sản là tài sản, truyền thống được truyền thừa từ quá khứ mà vẫn có ý nghĩa và giá trị cho hiện tại và tương lai (Burden, ISBN 0-07-142838-0).

Theo đó, khái niệm Di sản (Heritage) và Di tích (Monument) được phân biệt rõ ràng hơn. Di sản không chỉ đơn thuần được cấu thành bởi những giá trị vật chất (tangible values) mà còn bao gồm cả giá trị phi vật chất (intangible values).

b. Di sản Văn hoá và Di sản Kiến trúc

Di sản Văn hóa (Cultural Heritage) là sản phẩm chứa đựng cả yếu tố vật thể và phi vật thể được tạo ra thông qua lịch sử trong suốt quá trình sử dụng văn minh (nguồn tham chiếu văn hóa) của mỗi cộng đồng dân tộc.

Di sản Kiến trúc (Architectural Heritage), là những đơn nguyên công trình kiến trúc hoặc quần thể công trình kiến trúc mang đặc tính di sản, được xây dựng bằng công nghệ và vật liệu truyền thống, là biểu hiện hữu hình của không gian và thời gian đại diện cho một giai đoạn lịch sử cụ thể, vẫn chứa đựng ý nghĩa và giá trị cho hiện tại và tương lai.

Theo đó, nếu Di tích trong hình hài một thực thể kiến trúc bao gồm sự kết hợp nhiều yếu tố cấu thành gốc, không thể sao chép, không thể tái tạo mà chỉ có thể bảo tồn nguyên vẹn hình hài nguyên bản của nó thì gọi là Di tích Kiến trúc; Di sản trong hình hài của công trình kiến trúc bao gồm cả cấu trúc vật chất (tangible) và nguồn GEN ẩn chứa trong nó (intangible), có thể được tái tạo bằng cách tiếp tục không lai tạp nguồn GEN đó trong trường hợp bị phá hủy thì gọi là Di sản Kiến trúc.

Do đó, Di tích Kiến trúc là một nguyên mẫu độc nhất trong khi Di sản Kiến trúc có thể là phiên bản “N” của nguyên mẫu đó và có thể được tái tạo trong quá trình sử dụng xuyên suốt lịch sử. Đối với trường hợp di dời ngôi chùa Yakushiji (năm 718 CN) tại TP Nara (Nhật Bản), việc tái thiết toà tháp phía Tây (năm 1980) dựa trên nguồn GEN di sản tham khảo từ bản vẽ thiết kế toà tháp phía Đông, là yếu tố cấu thành gốc của ngôi chùa này có từ thế kỷ thứ 8 A.D, có lẽ là một ví dụ điển hình cho luận thuyết này (hình 1, 2, 3).

c. Bảo tồn, Trùng tu và Tái thiết

Như vậy, khái niệm Bảo tồn, Trùng tu và Tái thiết di sản nên được hiểu như thế nào, và mối quan hệ giữa chúng ra sao? Dưới đây là bảng so sánh định nghĩa trong từ điển của Ernest Burden 1 và nội dung tương ứng trong Công ước Bura 1999 (bảng 1).

Bảng1. So sánh định nghĩa

Với những thông tin trên, chúng tôi xin được diễn giải nội hàm cụm khái niệm này như sau:

  • Bảo tồn là cách tích lũy di sản để làm giàu quỹ di sản cho mỗi cộng đồng dân tộc và cộng đồng Thế giới.
  • Trùng tu là cách thức nhận biết giá trị di sản và trả lại giá trị chân xác cho di sản đó.
  • Tái thiết là cách đọc hiểu di sản để tái tạo nguồn DNA của nó nhằm bảo tồn bền vững di sản đó.

Vì vậy, Bảo tồn là khái niệm tập hợp của Trùng tu và Tái thiết. Theo đó, các cụm khái niệm tập hợp con sẽ được sẽ được triển khai như là những giải pháp bảo tồn sẽ được áp dụng tuỳ theo mức độ yêu cầu can thiệp kỹ thuật đối với từng công trình di sản kiến trúc gồm: Bảo vệ (Protection), Bảo quản (Maintainance), Gia cố (Consolidation), Gia cường (Reinforcement), Trùng tu (Restoration), Phục hồi (Rehabilitation) và Tái thiết (Reconstruction). Như vậy, tất cả những giải pháp này được đề xuất áp dụng đồng thời (hoặc không đồng thời) đều nhằm đáp ứng nhiệm vụ của dự án bảo tồn đặt ra.

Nếu “Di tích Kiến trúc” là tài sản vật chất, độc nhất vô nhị và không thể tái tạo thì “Di sản Kiến trúc” là loại hình tài sản văn hóa bao gồm cả yếu tố vật thể (tangible) và phi vật thể (intanggible) có khả năng tái tạo. Yếu tố hữu hình của “Di sản Kiến trúc” được hiểu là sự tồn tại của chúng bao gồm bản vẽ thiết kế kiến trúc, yếu tố vô hình bao gồm ý tưởng kiến trúc và sự hiểu biết đầy đủ về thực thể di sản kiến trúc đó dựa trên tính xác thực của các nguồn tài liệu và khả năng có thể tái tạo dựa trên nguồn DNA Di sản được truyền thừa.

Giải mã sách “Kiwari shou” bởi chuyên gia và thợ mộc truyền thống Nhật Bản
Bảo tồn cấu kiện nguyên gốc và giải mã ký tự mang thông tin lưu truyền kiến trúc di sản Nhật Bản

Mã lưu truyền (transmission code) và nguồn DNA di sản (heritage dna)

Lưu truyền là bản năng của mọi sự sống, lưu truyền vô thức đảm bảo sự tiến hóa, lưu truyền hữu thức đảm bảo sự phát triển. Phương thức lưu truyền đó được mệnh danh là Bảo tồn2. Bảo tồn di sản văn hóa là hình thức lưu truyền hữu thức do con người thực hiện, trước hết nhằm bảo đảm sự phát triển văn hóa của mỗi cộng đồng dân tộc và rộng hơn là văn hóa của nhân loại. Để bảo tồn thành công nguồn GEN văn hóa, cần làm rõ mã lưu truyền di sản văn hóa của từng cộng đồng dân tộc. Công thức di truyền sinh học (DNA) là bài toán khó, công thức di truyền di sản văn hóa (DNA Di sản) cũng là một bài toán khó, nhưng không có nghĩa là không giải mã được mà/hoặc có thể, sẽ có một hướng dẫn thông minh để làm việc này do các chuyên gia quốc tế cung cấp.

Quy mô kinh đô Nara thế kỷ 8-9

Điều mà người Nhật muốn truyền tải thông qua Công ước Nara về bảo tồn và tái thiết di sản kiến trúc giống như việc nhân bản vô tính “Cừu Dolly” trong sinh học để thiết lập cơ sở pháp lý quốc tế cho việc tái thiết những di sản kiến trúc quý giá đã bị mất trong quá khứ mà điển hình là Hoàng cung Nara (Heijoukyo) ở TP Nara, Nhật Bản (hình 8, 9, 10, 11, 12). Từ tham vọng mãnh liệt và sự đột phá của Nhật Bản thông qua Công ước Nara mà cả một quần thể di sản Hoàng cung Nara đã ngủ yên trong lòng đất suốt 13 thế kỷ bỗng hồi sinh mạnh mẽ. Điều này cho thấy rằng, nếu hiểu theo nghĩa nội hàm thì khái niệm Văn minh (Civilization) là những phát minh, sáng tạo nhằm cải thiện cho tốt hơn điều kiện sống của loài người trên địa cầu thì Văn hiến (Liturature) là thời gian sử dụng văn minh ấy, đúc rút thành kinh nghiệm, viết ra thành sách vở, và Văn hóa (Culture) là phương cách sử dụng văn minh riêng của mỗi cộng đồng dân tộc, mà từ đó, có thể sáng tạo nên văn hóa trên nền tảng tiếp biến văn minh.

Ở góc độ xã hội, di sản là nguồn GEN di sản bền vững giúp củng cố và tái tạo bản sắc văn hóa. Từ quan điểm kỹ thuật, sự hiểu biết đầy đủ và thấu đáo về mã lưu truyền hay còn có thể gọi là DNA Di sản sẽ giúp tái tạo di sản. Về mặt bảo tồn, điều đó sẽ giúp các hoạt động trùng tu và tái thiết di sản đạt được mục tiêu về tính chân xác và chất lượng bảo tồn. Về mặt kinh tế, thành tựu bảo tồn sẽ thu hút tình cảm, khôi phục sự ngưỡng mộ và lòng tôn kính của cộng đồng đối với những thành tựu văn hóa của nhân loại thông qua di sản, từ đó kinh tế du lịch sẽ phát triển. Thiết lập công thức DNA Di sản là quan trọng trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa cũng mỗi cộng đồng dân tộc nói chung, và đối với Việt Nam nói riêng.

Mô hình tái thiết tỉ lệ 1/1 khu vực trung tâm Hoàng cung Nara
Công trình Suzakumon (Chu Tước Môn) – Cổng chính Hoàng Cung Nara, được tái thiết và được công nhận là Di sản văn hoá thế giới năm 1996

Thay lời kết

Sự hiện hữu và tình trạng bảo tồn của Di tích Huế hiện nay cho thấy khả năng tái sinh với đầy đủ những đặc trưng giá trị và tính chân xác theo tinh thần Công ước Nara như đã đề cập trên đây. Ngoài ra, quần thể di tích này còn hàm chứa đặc tính giá trị tình cảm rất quan trọng là giá trị bản sắc, tính liên tục của truyền thống, sự ngưỡng mộ, lòng tôn kính, sự cao cả của biểu tượng và sự sâu sắc của tinh thần mà rất nhiều thế hệ người Việt Nam và cộng đồng quốc tế đã nỗ lực để gìn giữ, bảo tồn và vinh danh.

Lịch sử minh chứng cho sức mạnh nội lực của dân tộc Việt Nam thông qua 1000 năm Bắc thuộc, 100 năm thuộc địa thực dân Pháp, vẫn không bị đồng hóa, không bị nhấn chìm, 10.000 ngày chiến đấu vì tự do, độc lập thống nhất đất nước, và cuối cùng đã chiến thắng. Vì đâu dân tộc Việt Nam có được nội lực phi thường đó, câu trả lời chỉ có thể là vì Văn hóa Việt được truyền thừa liên tục từ thế hệ này qua thế hệ khác. Văn hóa là khái niệm vô hình nhưng được cảm thụ từ những yếu tố tác động hữu hình, là thực thể sống luôn biến đổi thích ứng (Adaptive Living Object). Văn hóa hun đúc lòng yêu nước, mỗi khi văn hóa bị dồn nén, chà đạp thì lòng yêu nước sẽ kích hoạt tinh thần quật khởi quật cường. Lịch sử dựng nước và giữa nước của Việt Nam đã chứng minh điều đó.

Nghiên cứu này chắt lọc những khái niệm cơ bản từ các văn bản pháp lý quốc tế và Luật Di sản văn hoá Việt Nam, diễn giải nội hàm khái nhiệm: Bảo tồn, Trùng tu và Tái thiết, góp phần định hướng thiết lập các dự án bảo tồn trong tương lai. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng đã đề xuất khái niệm “Mã lưu truyền” (Transmision Code) và “DNA Di sản” (Heritage DNA) như là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo nhằm thiết lập công thức lưu truyền văn hóa thông qua di sản kiến trúc.

Hình 11. Phế tích nền móng Suzakumon (nguồn: Catalog Nabunken, 2004)

TS.KTS. Lê Vĩnh An
Viện Trưởng Viện Kỹ thuật Công nghệ Việt – Nhật, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
KS. Nguyễn Thế Sơn
Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Cung Đình Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Thừa Thiên Huế, Việt Nam
ThS. Nguyễn Thị Kim Nhung
Giảng viên, Viện Đào tạo và Nghiên cứu Du lịch, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, Việt Nam
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 12-2022)


Chú thích:
1) Enest Burden, “Từ điển minh hoạ về Kiến trúc Bảo tồn” (Illustrated Dictionary of Architectural Preservation), ISBN 0-07-142838-0)
2) Hoàng Đạo Kính, Văn hóa Kiến trúc, NXB Tri Thức, Hà Nội 2012, tr. 3