Theo dự báo dân số, Việt Nam sẽ chính thức bước vào giai đoạn “già hóa” từ năm 2017 (Tổng cục thống kê, 2010). Một thực trạng hiện đang rất phổ biến ở Việt Nam là người cao tuổi vẫn phải tự lao động kiếm sống, thậm chí ở nhiều vùng nông thôn, người cao tuổi còn là lao động chính trong gia đình. Bên cạnh đó, việc chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi vẫn chủ yếu theo mô hình tự chăm sóc tại nhà do chi phí khám chữa bệnh cao, kèm theo việc phần lớn người cao tuổi vẫn chưa ý thức được các nguy cơ bệnh tật. Báo cáo quỹ dân số liên hiệp quốc (UNFPA) cũng nhấn mạnh tốc độ già hóa dân số của Việt Nam tương đối nhanh, tỷ lệ người cao tuổi sống cô đơn cũng đang có xu hướng gia tăng. Từ những lý do trên, có thể thấy trong giai đoạn sắp tới, mô hình tự chăm sóc sức khỏe tại gia đối với người cao tuổi sẽ không còn phù hợp và sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, tâm lý của người cao tuổi đồng thời tạo ra áp lực cho hệ thống kinh tế xã hội. Trước thực trạng trên, nhu cầu đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi là tất yếu trong đó có loại hình nhà dưỡng lão – một loại hình nhà ở đặc biệt đang cần được quan tâm đúng mức.

Khái niệm nhà dưỡng lão
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một định nghĩa cụ thể nào về “nhà dưỡng lão”. Khái niệm “nhà dưỡng lão” được dùng mặc định trong một số các tài liệu về tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng nhưng không được giải thích rõ ràng. Trong “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân loại, phân cấp công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị” và quy chuẩn về “Nhà ở và công trình công cộng – An toàn sinh mạng và sức khoẻ”, nhà dưỡng lão được xếp vào nhóm các công trình công cộng và thuộc loại công trình y tế. Trong đa phần các trường hợp, “Nhà dưỡng lão” được hiểu đơn giản là một mô hình nhà ở cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và tinh thần cho người cao tuổi.
Kinh nghiệm thế giới về nhà dưỡng lão
Thông thường ở các nước phát triển, nhà dưỡng lão thường được chia thành 3 loại. Loại thứ nhất là các cơ sở chăm sóc sức khỏe “bán phần”, dành cho những người cao tuổi không thể tự làm hết tất cả mọi việc nhưng vẫn có thể đi lại, tự lo các vấn đề vệ sinh cá nhân. Nhân viên sẽ phụ giúp họ mặc áo quần, ăn uống, vệ sinh cá nhân, thuốc men, tắm rửa … trong các trường hợp cần thiết. Loại thứ hai là nơi chăm sóc sức khỏe “toàn phần”, dành cho những người cao tuổi bị khuyết tật nặng, tai biến… cần sự hỗ trợ toàn bộ trong các sinh hoạt hàng ngày. Họ được các y tá chăm sóc, theo dõi liên tục 24/24. Các cơ sở này thường phải gắn liền với các khu vật lý trị liệu, phòng khám sức khỏe với đầy đủ các thiết bị y tế và bác sỹ, y tá đạt tiêu chuẩn do nhà nước đặt ra. Loại thứ ba là các cơ sở dành cho những bệnh nhân bị lú lẫn, mất trí nhớ cần chăm sóc đặc biệt. Ở Mỹ loại thứ nhất bao gồm các cơ sở chăm sóc trung cấp (Intermediate care facility – ICF) và các cơ sở chăm sóc dành cho người tàn tật (Assisted living facility – ALF). Loại thứ hai là các cơ sở chăm sóc cao cấp (Skilled nursing facility- SNF) và loại thứ ba là viện dưỡng lão cho những người bị lú lẫn (Alzheimer facility). Ở Úc chia các viện dưỡng lão ra thành 3 nhóm là cấp thấp (Low level care), cấp cao (High level care) và các cơ sở dành cho các bệnh nhân có tình trạng tâm thần kém (Mental health). Ở Anh cũng chia ra 2 loại hình là nhà điều dưỡng (Care home) và viện dưỡng lão (Nursing homes). Hai loại hình nhà dưỡng lão này có thể bố trí tách riêng hoặc tập trung ở cùng một địa điểm.
Ở đây chúng ta không đề cập đến các loại hình nhà dưỡng lão quá đặc thù dành cho những bệnh nhân phải nằm liệt giường hay các bệnh nhân bị lú lẫn, mất trí mà chỉ quan tâm đến mô hình nhà dưỡng lão dành cho người cao tuổi còn minh mẫn và có thể tham gia các sinh hoạt cơ bản hằng ngày. Đây là mô hình nhà dưỡng lão mà Việt Nam cần ưu tiên đầu tư xây dựng trong tương lai gần khi vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi đang trở thành một trong những mục tiêu trọng điểm của chương trình hành động quốc gia.
Nhà dưỡng lão ở các quốc gia phương Tây như Mỹ, Anh: Do đặc thù về văn hóa, lối sống nên đa phần các thành viên trong gia đình đều độc lập cả về kinh tế lẫn đời sống tinh thần. Con cái sau khi đủ tuổi trưởng thành hoặc có việc làm thường tách ra ở riêng hoặc nếu ở chung thì cũng ít gắn bó với cha mẹ hơn. Vì vậy cha mẹ thường phải tự chăm sóc bản thân mình thay vì mong chờ vào sự phụng dưỡng của con cái khi về già. Nhà dưỡng lão do đó là một lựa chọn hợp lý và trở thành ngôi nhà thứ hai của họ khi đã đến tuổi xế chiều. Với quan niệm nhà dưỡng lão là chỗ ở, sinh hoạt lâu dài chứ không chỉ đơn thuần là một cơ sở có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe tạm thời nên mô hình nhà dưỡng lão ở phương Tây hướng đến việc tạo ra một không gian sống thoải mái, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần cho người cao tuổi để họ có thể cảm thấy an tâm sống và thậm chí làm việc như trong chính ngôi nhà của họ. Để làm được điều này, các KTS, nhà thiết kế nội thất cần có những hiểu biết thấu đáo về thói quen sinh hoạt, tâm sinh lý cũng như mong muốn của người cao tuổi, những cư dân sẽ sống lâu dài trong chính công trình mà họ đang thiết kế. Một số những vấn đề cần chú trọng khi thiết kế nhà dưỡng lão:
– Môi trường điều trị, chăm sóc phải tạo cho người cao tuổi cảm giác như đang ở trong một gia đình. Cần tạo ra các không gian ở và sinh hoạt có đủ ánh sáng tự nhiên, có tầm nhìn ra ngoài trời. Màu sắc sử dụng trong thiết kế nội thất cần chú trọng tạo cảm giác vui vẻ, ấm cúng và đa dạng, tránh tạo cảm giác lạnh lẽo hoặc đơn điệu như trong các phòng khám hay bệnh viện. Tuy nhiên cần lưu ý rằng những màu sắc quá sặc sỡ có thể không phù hợp, gây ra tình trạng mất phương hướng với thị lực yếu của người cao tuổi và tạo cảm giác bất an. Bên cạnh đó cũng cần chú ý thiết kế không gian đảm bảo tính riêng tư cho các yêu cầu, sở thích của từng cá nhân để tăng tính tự chủ, độc lập của người cao tuổi.
– Đảm bảo hiệu quả trong vận hành: Giảm thiểu khoảng cách đi lại cần thiết giữa các không gian thường hay được sử dụng để nhân viên có thể làm việc một cách hiệu quả nhất. Các không gian đa chức năng như hội trường, phòng giải trí, thư viện nên bố trí ở khu vực trung tâm. Có thể sử dụng các biện pháp giám sát bằng camera để giảm bớt số lượng nhân viên túc trực.
– Chú trọng đến điều kiện vệ sinh môi trường: Do điều kiện sinh lý, sức khỏe nên vấn đề vệ sinh cá nhân của người cao tuổi nếu không chú trọng có thể sẽ ảnh hưởng đến điều kiện môi trường chung của nhà dưỡng lão, gây ấn tượng xấu cho người thân cũng như khách đến thăm.
– Lưu tâm đến thiết kế đảm bảo tính dẫn hướng, dễ tìm đường để giúp cho người cao tuổi có dễ dàng nhận biết vị trí hiện tại và đích đến. Những không gian được sử dụng thường xuyên như phòng sinh hoạt chung, thư viện… cần bố trí các yếu tố dẫn hướng có tính kiến trúc, nghệ thuật dễ dàng nhìn thấy từ xa như cây xanh, non bộ, tượng…
– Cần đáp ứng các yêu cầu thiết kế kiến trúc đảm bảo cho người khuyết tật, người cao tuổi dễ dàng tiếp cận các không gian chức năng trong nhà dưỡng lão.
– An ninh và an toàn: Bố trí các tay vịn, thanh vịn ở tất cả các vị trí thích hợp cũng như thiết kế cốt nền, sàn kết hợp sử dụng vật liệu sao cho hạn chế tối đa khả năng vấp, ngã, trơn trượt… Kiểm soát nghiêm ngặt tránh cho người cao tuổi tiếp cận quá gần các khu vực nguy hiểm như hồ nước, trạm điện… Bố trí thiết bị giám sát để đảm bảo an toàn tài sản cho cư dân, nhân viên cũng như khách đến thăm.
– Yếu tố thẩm mỹ trong thiết kế có liên quan mật thiết đến việc tạo cho người cao tuổi cảm giác được điều trị như ở nhà. Nó đồng thời cũng góp phần quan trọng vào việc tiếp thị hình ảnh của nhà dưỡng lão đến người nhà bệnh nhân cũng như khách đến thăm quan.
– Phát triển bền vững: nhà dưỡng lão là các công trình công cộng nên đương nhiên sẽ có những tác động đáng kể đến yếu tố môi trường cũng như kinh tế của cộng đồng cư dân xung quanh. Do vậy cũng cần thiết kế đảm bảo nhằm đảm bảo các yêu cầu về tiết kiệm năng lượng cũng như thân thiện với môi trường xung quanh.
Nhà dưỡng lão ở các quốc gia phương Đông như Nhật, Trung Quốc: Do truyền thống văn hóa cũng như quan niệm về đạo đức, con cái phải có trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ. Bên cạnh đó, trong xã hội phương Đông, giữa các thành viên trong gia đình luôn có một sợi dây liên kết tình cảm, ông bà muốn được ở gần con cháu nên việc đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão phần đông bị coi là một việc làm thiếu đạo đức. Vì vậy nhà dưỡng lão thường chỉ được coi như nơi ở tạm thời của người cao tuổi trong một số hoàn cảnh bắt buộc chứ đa phần người cao tuổi không xác định coi đó là chỗ ở lâu dài. Tuy nhiên hiện nay các quốc gia này trước áp lực ngày càng gia tăng của nhu cầu chăm sóc người cao tuổi. Hơn 30 năm thực hiện chính sách đẻ 1 con của Trung Quốc dẫn đến hiện tượng mô hình gia đình phổ biến hiện tại 2 vợ chồng đi làm nuôi dưỡng 4 người già và một trẻ em. Ngược lại, ở Nhật Bản và Hàn Quốc lại phổ biến mô hình gia đình đơn thân cho dù Chính Phủ các nước đó đã có nhiều nỗ lực nhằm tăng tỉ lệ sinh. Điều này càng làm trầm trọng thêm hiện tượng già hóa dân số cũng đang có những thay đổi mạnh mẽ từ sự quan tâm của Chính Phủ đến nhận thức của người dân về một mô hình nơi ở mới cho người cao tuổi – hệ thống nhà dưỡng lão. Nhật Bản đã coi nhà dưỡng lão là một loại hình nhà ở độc lập có hệ thống tiêu chuẩn thiết kế riêng kèm theo những điều kiện bắt buộc về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, Trung Quốc đang trong giai đoạn nghiên cứu một mô hình nhà dưỡng lão riêng mang đặc thù Trung Quốc với hơn 10 đề tài nghiên cứu cấp Nhà Nước và cấp Bộ Ngành bắt đầu được thực hiện từ năm 2008, hiện đã có 2 đề tài được nghiệm thu (2012, 2013).

Hiện trạng nhà dưỡng lão ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những cơ sở chăm sóc người cao tuổi đầu tiên được thành lập chính là các trung tâm điều dưỡng người có công với đất nước. Những trung tâm này chủ yếu làm nhiệm vụ điều dưỡng luân phiên những người cao tuổi theo diện chính sách (không nuôi dưỡng suốt đời) do nhà nước bảo trợ. Một trong những mô hình nhà dưỡng lão tư nhân đầu tiên ở Hà Nội là Trung tâm chăm sóc người cao tuổi Thiên Phúc, được thành lập từ năm 2001. Đến nay, chỉ tính riêng trên địa bàn Hà Nội có 13 trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dưỡng người già thuộc diện chính sách, không nơi nương tựa và trẻ em mồ côi trong đó có 5 cơ sở tư nhân và 3 cơ sở nhà nước có chức năng chính là chăm sóc và nuôi dưỡng người cao tuổi. Có thể thấy số lượng trung tâm chăm sóc người cao tuổi như trên là quá ít so với nhu cầu thực tế của người dân.
– Về mặt phân bố, các cơ sở chăm sóc người cao tuổi chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Các tỉnh thành khác mỗi nơi thường chỉ có một vài cơ sở hoặc thậm chí không có cơ sở nào. Do mức phí dịch vụ còn khá cao nên chỉ tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh… mới có các dịch vụ chăm sóc người cao tuổi nhưng đa phần các cơ sở này nằm ở khu vực ngoại thành, xa trung tâm. Ở các tỉnh lẻ, các trung tâm bảo trợ xã hội cũng dành một phần hoạt động để nuôi dưỡng, chăm sóc người già. Tuy nhiên, đối tượng chỉ là các cụ neo đơn, khó khăn, không nơi nương tựa.
– Đối với việc quản lý, cấp phép, từ những năm 2010 trở về trước, các trung tâm chăm sóc người cao tuổi do các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xây dựng ra đời nhưng chưa có một cơ quan quản lý nào đứng ra cấp phép, kiểm tra. Việc cấp phép đa phần do ủy ban nhân dân sở tại ra quyết định nhưng cũng không có văn bản nào hướng dẫn cụ thể. Mới đây, tháng 1/2011, Chính phủ ban hành Nghị định 06/2011/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người cao tuổi, trong đó quy định cơ quan cấp phép và quản lí các trung tâm chăm sóc người cao tuổi là các Sở Lao động, Thương binh và Xã hội.
– Mô hình của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay có thể chia thành 3 nhóm. Nhóm thứ nhất là các cơ sở do các cá nhân, doanh nghiệp đứng ra tổ chức, xây dựng. Với những doanh nghiệp hoặc cá nhân có điều kiện họ bỏ tiền ra thuê đất, xin cấp phép sau đó xây dựng cơ sở vật chất và đưa vào hoạt động. Các cơ sở này vận hành theo mô hình kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức khỏe, có lợi nhuận để tự duy trì hoạt động. Trung tâm dưỡng lão Thiên Phúc do ông Nguyễn Tuấn Ngọc thành lập năm 2001 và hiện là một trong những mô hình nhà dưỡng lão tương đối thành công. Tuy nhiên đa phần các cơ sở này đều gặp khó khăn nhất định do các chính sách hỗ trợ của nhà nước chưa đầy đủ và triệt để, việc thuê đất cũng như hỗ trợ vay vốn còn gặp nhiều khó khăn. Nhóm thứ hai là các cơ sở dưỡng lão từ thiện do các cá nhân hoặc tổ chức tôn giáo như nhà chùa, giáo hội đứng ra tổ chức. Các cơ sở này hoạt động theo mô hình thiện nguyện, kinh phí hoạt động do sự đóng góp của các doanh nghiệp, cá nhân hảo tâm nên cơ sở vật chất thường không được khang trang, diện tích nhỏ, chủ yếu nuôi dưỡng những người cao tuổi cô đơn, không có người thân thích, lang thang, cơ nhỡ… Nhóm thứ ba bao gồm các sở chăm sóc, điều dưỡng người có công, người cao tuổi thuộc diện chính sách do nhà nước đứng ra bảo trợ. Các cơ sở này có cơ ngơi khang trang, được nhà nước hỗ trợ về kinh phí lẫn chính sách tuy nhiên số lượng các cơ sở này còn ít và đa phần các cơ sở này chỉ chủ yếu chăm sóc, điều dưỡng luân phiên chứ không nhận nuôi dưỡng suốt đời.
– Về mặt hạ tầng, quy mô các cơ sở cũng rất khác nhau và không có một tiêu chí thống nhất cụ thể về chỉ tiêu diện tích/người. Có những cơ sở an dưỡng cao cấp như làng an dưỡng Ba Thương có diện tích vài ha trong khi rất nhiều cơ sở chăm sóc người cao tuổi từ thiện khác chỉ là một hệ thống phòng ốc nhỏ bên trong khuôn viên của nhà chùa hoặc do các cá nhân tự mở ra với diện tích chỉ có vài trăm m2. Trang thiết bị của các cơ sở còn khá hạn chế và thiếu thốn. Một số cơ sở được đầu tư tốt hoặc được sự hỗ trợ của nhà nước mới có các khu vực phục hồi chức năng, vật lý trị liệu cũng như diện tích sân vườn, cảnh quan cây xanh cho nhu cầu thư giãn nghỉ ngơi (trung tâm dưỡng lão Thiên Phúc, trung tâm dưỡng lão Nhân Ái, các trung tâm điều dưỡng người có công) nhưng vẫn chỉ đáp ứng ở mức độ cơ bản…. Đa phần các cơ sở từ thiện chỉ có thể đáp ứng nhu cầu ăn, ở cho người cao tuổi còn gần như không có các trang thiết bị chăm sóc, phục hồi sức khỏe cũng như diện tích sân vườn phụ trợ.
– Các yếu tố thẩm mỹ trong thiết kế kiến trúc hầu như chưa được quan tâm đúng mức. Các cơ sở trong nội thành như trung tâm dưỡng lão Thiên Đức hay Nhân Ái, do phải thuê địa điểm, giá thuê đất cao cũng như thời gian thuê ngắn nên các cơ sở này chủ yếu chỉ có thể tận dụng lại hạ tầng công trình sẵn có và cải tạo lại để đưa vào sử dụng hoặc nếu thiết kế cũng chỉ đảm bảo yêu cầu về cơ bản về công năng sử dụng. Những cơ sở nằm ở ngoại thành có diện tích lớn như trung tâm dưỡng lão Tuyết Thái đủ điều kiện xây dựng sân vườn nhưng cũng mới chỉ ở mức sơ khai. Với việc không gian nội thất cũng như cảnh quan sân vườn không được chú trọng đầu tư xây dựng nên dễ nhận thấy sự đơn điệu trong hình thức kiến trúc, thiếu các điểm nhấn thị giác để tạo ra sự hứng khởi cho người ở.
– Phân khu chức năng trong các trung tâm dưỡng lão ở Việt Nam tương đối đơn giản và cơ bản giống nhau. Do đặc thù ở Việt Nam, đa phần người cao tuổi khi vào trung tâm dưỡng lão đều có các vấn đề về sức khỏe hay thậm chí mắc các bệnh về tâm thần. Với số lượng người cao tuổi nhiều và tình trạng bệnh lý phức tạp như vậy, cộng với việc thiếu điều dưỡng, đa phần các nhà dưỡng lão đều có một phòng hội trường với diện tích tương đối lớn ở trung tâm để tập trung các cụ trong những giờ sinh hoạt chung để tiện cho việc chăm sóc và quản lý. Các khu vực chức năng còn lại bao gồm khu vật lý trị liệu, phòng ăn, bếp nấu, hệ thống phòng ở, phòng điều hành và phòng nghỉ của nhân viên. Có thể thấy với mô hình này, những không gian riêng tư cho người cao tuổi gần như không có. Những nhu cầu như đọc sách, nghiên cứu hay cập nhật thông tin qua máy tính đối với những cụ còn minh mẫn gần như chưa được quan tâm.
– Việc thiết kế đảm bảo tính an toàn, khi sử dụng ở một số nhà dưỡng lão đã được chú ý nhưng đa phần vẫn chưa được quan tâm đúng mức hoặc do điều kiện khách quan nên không thể đảm bảo tính thuận tiện trong sinh hoạt. Ở nhiều cơ sở dưỡng lão, phòng ở, hành lang cũng như khu vệ sinh vẫn không có hệ thống tay vịn hoặc các trang thiết bị hỗ trợ vệ sinh cho người cao tuổi. Một số trung tâm dưỡng lão do điều kiện diện tích không đủ đã phải bố trí phòng ở cho người cao tuổi ở tầng 2 hoặc thậm chí tầng 3 trong khi các khu vực vật lý trị liệu lại nằm ở tầng 1 như trung tâm dưỡng lão Nhân Ái nên cũng gây ra nhiều hạn chế trong việc tự đi lại, vận động của người cao tuổi. Bên cạnh đó, việc sử dụng vật liệu lát nền đảm bảo an toàn, chống trơn trượt cũng chưa được quan tâm.
Kết luận
– Khi Liên hợp quốc chính thức công bố Năm 1999 – Năm “Quốc Tế người cao tuổi”, với chủ đề “Hướng tới không phân biệt tuổi tác, một xã hội dành cho tất cả mọi người” đã đánh dấu “Lão hóa” trở thành vấn đề mới có tính toàn cầu – Thế kỷ XXI là thế kỷ của lão hóa dân số. Dân số lão hóa kéo theo hàng loạt vấn đề như gia tăng đáng kể chi phí an sinh xã hội, mất cân đối quỹ lương hưu, bất đồng thế hệ thêm sâu sắc, hệ thống cơ sở vật chất và môi trường sống cho người cao tuổi thêm áp lực…tác động lên toàn bộ các hoạt động tổng thể của kinh tế xã hội từ văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, lao động và việc làm, quy hoạch đô thị và xây dựng tới mọi khía cạnh khác của đời sống. Trước một vấn đề đã nảy sinh và đã đạt tới một mức độ nhất định đòi hỏi các nhà quản lý và chuyên môn cần có một sự quan tâm đáng kể trước khi quá muộn, khi mà trong một dự báo tương lai gần khoảng năm 2030 nước ta sẽ đối mặt với những thách thức do vấn đề lão hóa dân số mang lại.
– Các quốc gia đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu và đã có những thành công nhất định về hệ thống cơ sở dưỡng lão như Mỹ, một số nước Tây Âu và châu Á. Các hoạt động nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các chính sách hỗ trợ tài chính, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ việc làm và các biện pháp an sinh xã hội giúp người cao tuổi thích ứng với một cuộc sống mới về sức khỏe thể chất và vai trò xã hội cũng như nhiều thay đổi khác. Trong điều kiện KTXH cụ thể của Việt Nam, việc xây dựng các trung tâm chăm sóc người cao tuổi quy mô lớn như các nước tiên tiến là khó khả thi và cũng không phù hợp với nguyện vọng, lối sống của đa số người cao tuổi do đó cần có một lộ trình trong đó coi trọng việc xây dựng cơ sở chăm sóc người cao tuổi và các biện pháp an sinh xã hội trong một tổng thể phù hợp trình độ quản lý và điều kiện KTXH, phù hợp tập quán, truyền thống văn hóa.Trước mắt kiến nghị tập trung nghiên cứu triển khai các trung tâm chăm sóc quy mô vừa và nhỏ có sự phân cấp đầu tư và quản lý trong một nền kinh tế thị trường với cơ cấu xã hội bao gồm ba bộ phận: các cơ quan Chính phủ, khu vực lợi nhuận, khu vực phi lợi nhuận. Hiện tại khu vực phi lợi nhuận với các cơ sở dưỡng lão quy mô nhỏ đang chiếm ưu thế, tuy nhiên khu vực lợi nhuận đang có xu hướng phát triển với các cơ sở quy mô nhỏ tới vừa trong tương lai gần sẽ chiếm vị trí chủ đạo do điều tiết của kinh tế thị trường. Bên cạnh đó là vai trò định hướng của các cơ sở chăm sóc người cao tuổi thuộc trách nhiệm trợ cấp xã hội của Chính phủ, ba bộ phận này cần hoạt động gắn kết chặt chẽ với nhau để hình thành hệ thống các “đối tác” bổ sung lẫn nhau.
– Như vậy khái niệm “cơ sở cho người cao tuổi” ở quy mô nhỏ và vừa có thể gọi là các “nhà dưỡng lão” trong giai đoạn nghiên cứu ban đầu cần tập trung nghiên cứu các lĩnh vực sau: Nhu cầu ở của người cao tuổi; Cộng đồng chăm sóc người cao tuổi; Căn hộ cho người cao tuổi; Môi trường cư trú trong nhà và ngoài trời cho người cao tuổi; Xây dựng hệ thống phân loại nhà dưỡng lão để từ đó xác định các tiêu chuẩn thiết kế liên quan phù hợp từng loại hình và quy mô, trả lời được cho các câu hỏi như mô hình cơ bản của sự kết hợp không gian là gì? Kích thước nào là thích hợp với người cao tuổi? Các tiện nghi tiêu chuẩn là gì? Loại tình huống nào ứng với loại hình cung cấp dịch vụ gì là cần thiết? Làm thế nào để đảm bảo có thể đạt được các loại dịch vụ từ các nguồn kiểm soát kinh tế và thể chế đi kèm…
– Do các quy định về quản lý, cấp phép chỉ mới được ban hành gần đây và cũng chưa có các tiêu chí cụ thể để đánh giá, kiểm tra chất lượng của các trung tâm chăm sóc người cao tuổi nên các cơ sở chăm sóc người cao tuổi tư nhân hiện nay đều tự vừa làm, vừa nghiên cứu, học hỏi áp dụng các mô hình chăm sóc người cao tuổi ở các nước phát triển chứ không theo một khung tiêu chuẩn cụ thể nào. Giữa các trung tâm cũng không có sự liên hệ, trao đổi kinh nghiệm với nhau để xây dựng một mô hình hoạt động thống nhất mà hoàn toàn phát triển tự phát, dựa trên điều kiện kinh tế, kinh nghiệm của từng doanh nghiệp, cá nhân nên các cơ sở chăm sóc người cao tuổi hiện nay chất lượng dịch vụ, cơ sở vật chất, trình độ của các điều dưỡng viên, đội ngũ y tá, bác sĩ cũng không đồng đều. Trước thực tế đó, cần có nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu đối với mô hình chăm sóc sức khỏe, tinh thần cho người cao tuổi ở Việt Nam. Từ đó xây dựng một khung tiêu chuẩn chung, cụ thể đối với việc thiết kế, xây dựng các hệ thống nhà dưỡng lão trên cả nước để làm tiêu chí đánh giá, phân loại và tiến tới xã hội hóa loại hình nhà ở đặc biệt. Việc làm này sẽ góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người cao tuổi, phát huy vai trò người cao tuổi phù hợp với tiềm năng và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo đúng tinh thần của chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam.
TS. Trần Xuân Hiếu – ThS. Dương Hoàng Trung
Khoa Kiến Trúc và Quy hoạch đô thị trường Đại học Xây dựng