Nghiên cứu Tái thiết Ðiện Cần Chánh, Hoàng Thành Huế – Di sản Văn hoá Thế giới

Phần 4: Phương pháp luận Nghiên cứu Tái thiết Điện Cần Chánh

Diễn biến quốc tế về bảo tồn di sản văn hóa ở khu vực Châu Á vào những năm 1993-1996, cụ thể là sự ra đời của Công ước Nara 1994 (Nara Documents on Authenticity) và sự kiện Hoàng Cung Nara (Heijoukyo, Nara) được công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới đã tạo động lực và nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho Việt Nam trong việc hun đúc ý tưởng tái thiết những công trình di sản kiến trúc có giá trị bị mất mà Việt Nam đã tham gia ký kết trở thành thành viên của Công ước Di sản Thế giới năm 1987.

Tiếp theo những bài viết nghiên cứu trước đây, trong bài viết này, trên cơ sở vận dụng lý luận, kinh nghiệm trùng tu di sản kiến trúc và điều kiện về thiết bị công nghệ, chúng tôi đề xuất Phương pháp luận Nghiên cứu Tái thiết Điện Cần Chánh gồm 9 hướng tiếp cận nghiên cứu và 4 phương pháp phân tích theo nguyên tắc “Tứ Định” (định tính, định lượng, định hình và định giá trị) làm nền tảng cho việc triển khai các hạng mục nghiên cứu theo định hướng bảo tồn của dự án tái thiết ngôi Điện này.

Bản vẽ trong tài liệu “Điện Đường Danh Hiệu Đồ Thức” của triều Nguyễn

Bối cảnh nghiên cứu

Hội nghị lần thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới (thuộc tổ chức UNESCO) được tổ chức tại Colombia vào tháng 12/1993 đã quyết định ghi tên Quần thể Di tích Cố đô Huế (The Complex of Hue Monuments, sau đây gọi tắt là Di tích Huế) vào danh mục Di sản văn hóa Thế giới. Tháng 11/1994, Công ước Nara về Tính Chân Xác (Nara Documents on Authenticity) được Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO chính thức thông qua năm 1996, khu di tích khảo cổ học Hoàng Cung Nara (thế kỷ 8-9) được công nhận là Di sản văn hoá Thế giới đã chứng minh sự đóng góp quan trọng của Công ước Nara vào hệ thống công ước quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa.

Những diễn biến quốc tế nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc bảo tồn và tái thiết Di tích Huế. Tuy được hình thành rất muộn (thế kỷ 19) nhưng Kinh đô Huế cũng được thiết kế và xây dựng trên cơ sở tham khảo hệ quy chiếu văn minh Trung Hoa như các quốc gia đồng văn châu Á khác kết hợp yếu tố nhập khẩu công nghệ châu Âu (kiến trúc phòng thủ Vauban của Kinh Thành Huế). Sự ra đời của Công ước Nara và sự kiện Hoàng Cung Nara được công nhận là Di sản văn hoá Thế giới đã tạo động lực và nguồn cảm hứng mạnh mẽ trong việc hun đúc ý tưởng tái thiết di sản kiến trúc đã bị mất mà Việt Nam đã tham gia ký kết trở thành thành viên của Công ước Di sản Thế giới năm 1987.

Dự án bảo tồn tổng thể Di tích Huế giai đoạn 1996-2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 12/1996, Quyết định 818/QĐ-TTg ngày 07/6/2010 về việc phê duyệt Đề án điều chỉnh quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế giai đoạn 2010-2020, theo đó ở giai đoạn III (2018-2020), nhiệm vụ đặt ra là: “Hoàn chỉnh việc phục hồi và tôn tạo những phế tích có giá trị tiêu biểu. Cơ bản phục hồi hoàn nguyên các công trình quan trọng khu vực Đại Nội theo kiến trúc Hoàng Thành trước đây và phương án quy hoạch bảo tồn được duyệt” trong đó bao gồm công trình Điện Cần Chánh.

Giai đoạn 1994 – 2010, chương trình hợp tác nghiên cứu bảo tồn giữa Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Viện Đại học Waseda (Nhật Bản) đã được triển khai, trong đó nhiệm vụ trọng tâm của chương trình hợp tác này nghiên cứu nguyên lý quy hoạch Kinh đô Huế và thiết lập phương pháp luận tái nghiên cứu thiết di sản. Đó chính là bối cảnh để chúng tôi tiến hành chủ đề nghiên cứu này.

Mô hình tái thiết Điện Cần Chánh (tỉ lệ 1/10)

Phương pháp luận Nghiên cứu tái thiết Điện Cần Chánh

1. Các hướng tiếp cận nghiên cứu

Phương pháp (Method) hiểu theo nghĩa thông thường là phương cách, cách thức có định hướng để thực hiện một công việc nào đó. Phương pháp luận (Methodology) là sự tập hợp nhiều phương pháp được kết hợp theo những nguyên tắc nhất định. Phương pháp luận được đề cập trong nghiên cứu này bao gồm một tập hợp các hướng tiếp cận nghiên cứu và các phương pháp phân tích được triển khai đồng thời với sự hỗ trợ của các thiết bị công nghệ: Máy toàn đạc quang tuyến (Optimal Measurement Machine), hệ thống định vị toàn cầu (Globle Position System/GPS), hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System/GIS), máy ảnh kỹ thuật số (Digital Camera), máy scan (Digital Scanner), computer Mac O.S, Windows và các phần mềm hộ trợ khác như Vector Work, Auto CAD, BIM (Building Information Modelling), Photoshop Indesign, Excel và các dụng cụ đo đạc cầm tay khác.

1.1 . Nghiên cứu tư liệu sử, đồ bản và bản vẽ cổ (A)

Sưu tập và truy tìm nguồn gốc của các nguồn tư liệu lịch sử nhằm xác thực thông tin về sự hiện hữu của công trình kiến trúc di sản, lịch sử xây dựng và tu bổ, những thay đổi trong quá khứ, ghi nhận và tìm hiểu những thông tin liên quan đến di sản để thẩm định tính chân xác của các nguồn tư liệu cung cấp theo tinh thần công ước quốc tế. Giải mã thông tin chữ Hán từ các nguồn sử liệu và thư tịch cổ để tìm hiểu về điển chế kiến trúc triều Nguyễn.

Nguồn sử liệu triều Nguyễn bao gồm: Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ Chính Biên (欽定大南會典事例正編), Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ Tục Biên (欽定大南會典事例続編), Đại Nam Thực Lục (大南寔録), Đại Nam Nhất Thống Chí (大南一統志), Quốc Triều Chánh Biên (國朝正編), Hoàng Việt Luật Lệ (皇越律例), Châu Bản Triều Nguyễn (阮朝硃本) và Minh Mạng Chính Yếu (明命政要), Điện Đường Danh Hiệu Đồ Thức (殿堂名號圖式 ) (hình 1).

Các thư tịch cổ và những nguồn tư liệu khác bao gồm: Phủ Biên Tạp Lục (撫邊雜錄), Nam Phương Danh Vật Bị Khảo (南方名物備攷), An Nam Chí Lược (安南志略), Những người bạn Cố đô Huế (Bullentin des Amis du Vieux Hue/B.A.V.H), Tạp chí Dân Việt Nam (Le peuple Vietnamien), Thời báo Đông Dương (Revue Indochinoies), Cố Đô Huế (Thái Văn Kiểm).

1.2 . Nghiên cứu tư liệu ảnh cổ (B)

Nguồn tư liệu ảnh đen trắng chụp Di tích Huế bằng phương pháp âm bản (negative) trên kính hoặc phim nhựa do người phương Tây chụp, chủ yếu bắt đầu xuất hiện từ thời Thành Thái. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 54 bức ảnh đen trắng chụp vào nửa đầu thế kỷ 20 được chia thành bốn giai đoạn (bảng 1):

  • a) Giai đoạn 1: Trước năm 1907 (thời Thành Thái);
  • b) Giai đoạn 2: 1907 – 1916 (thời Duy Tân);
  • c) Giai đoạn 3: 1916 – 1925 (thời Khải Định);
  • d) Giai đoạn 4: 1925 – 1947 (thời Bảo Đại đến chiến tranh Đông Dương lần 1).

Trong đó gồm 3 nhóm: Ảnh chụp từ trên không, ảnh chụp ngoại thất và ảnh chụp nội thất. Từ những bức ảnh này đã xác định được vị trí tương quan trong khu vực và hình thức kiến trúc của ngôi Điện này. Ngoài ra còn giúp kiểm chứng được chiều cao của các cây cột so với kích thước thiết kế lý thuyết.

1.3. Thám sát khảo cổ học, khảo sát nghiên cứu phế tích nền móng kiến trúc (C)

Công tác khảo sát phế tích nền móng Điện Cần Chánh được thực hiện liên tục từ năm 2002 đến năm 2006 bằng 03 phương pháp khảo sát được áp dụng để thu thập cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc phân tích là: Sử dụng máy toàn đạc quang tuyến, thiết bị GPS và GIS để đo đạc kích thước tổng thể, xác định vị trí của từng viên đá và vị trí của Điện Cần Chánh trong mối tương quan định vị địa lý toàn cầu; Phương pháp bóc lớp phủ bề mặt nền Điện, phác thảo, đo vẽ thủ công từng bộ phận và chụp ảnh các dấu tích liên quan đến quá trình biến đổi của nền móng; Thám sát khảo cổ học một phần bó vỉa để tìm hiểu thành phần cấu tạo bên trong của nó1. Với sự kết hợp đồng thời của 03 phương pháp khảo sát trên, chúng tôi đã ghi nhận đầy đủ các cơ sở dữ liệu cần thiết cho việc phân tích.

Bảng 1. Danh mục tư liệu ảnh cổ

1.4. Nghiên cứu đối sánh Đồng đại và Đồng dạng (D)

Khái niệm “Đồng đại” là đề cập đến những công trình được xây dựng cùng thời kỳ, “Đồng dạng” là những công trình tương tự nhau về hình thái kiến trúc và tương đồng về công năng sử dụng. 14 công trình được khảo sát phân tích gồm: 09 công trình bên trong Hoàng Thành và Kinh Thành, 05 công trình ở các khu lăng tẩm Hoàng đế (bảng 2). Trong số đó, cấu trúc phần bên trên của 04 công trình gồm Điện Càn Thành, Điện Cần Chánh, Thái Tổ Miếu và Điện Phụng Tiên đã bị mất (chỉ còn lại phế tích nền móng), những cấu trúc này của 10 công trình khác vẫn còn tồn tại.

Dựa trên kết quả đo đạc kích thước thực tế, chúng tôi đã tiến hành phân tích tỉ lệ kích thước giữa mặt bằng và mặt cắt kiến trúc, giữa kích thước tổng thể và kích thước bộ phận, đối sánh chéo giữa hai nhóm đồng đại và đồng dạng để xác định sự tương đồng và dị biệt giữa các công trình kiến trúc, từ đó đề xuất và kiểm chứng giải thuyết về cấu trúc hệ khung gỗ và hệ mái của Điện Cần Chánh.

1.5. Nghiên cứu xác định đơn vị thiết kế dưới triều Nguyễn (E)

Các công trình di sản kiến trúc của Di tích Huế không dùng hệ mét (meters) để thiết kế mà có một hệ đơn vị đo đạc thiết kế riêng. Vì vậy, chúng tôi phải tìm các nguồn tham khảo về đơn vị đo đạc được sử dụng dưới thời Nguyễn bao gồm: Những cây Thước chính thức của triều đình Nguyễn (hay còn gọi là Quan Xích) được lưu giữ trong các bảo tàng ở Việt Nam (bảng 3), những cây trước truyền thống thuộc sở hữu của thợ mộc và thầy địa lý, kiểm chứng số đo từng bộ phận của Cửu Đỉnh (九鼎) tại khu vực Thế Miếu bên trong Hoàng Thành Huế.

Ngoài ra, một biện pháp kiểm chứng đơn vị thiết kế nữa là sử dụng kết quả đo đạc kích thước thực tế của Hoàng Thành và các Lăng (cung cấp bởi các thiết bị đo đạc công nghệ cao) chia cho số kích thước (hệ trượng/xích) được ghi chép trong sử liệu. Kết quả cho thấy, 01 đơn vị thiết kế dùng cho Hoàng Thành ước tính = 424mm ~ 428mm, và 01 đơn vị thiết kế dùng cho các Lăng ước tính = 380mm ~ 382mm.

Bảng 2. Danh mục các công trình nghiên cứu đối sánh
Bảng 3. Danh mục các công trình nghiên cứu đối sánh

1.6. Nghiên cứu phương pháp thiết kế kiến trúc truyền thống (F)

Nghiên cứu sử liệu để truy tìm các thông tin liên quan đến điển chế kiến trúc, các hoạt động xây dựng, sửa chữa dưới triều Nguyễn. Thông kê các danh từ, cụm danh từ và động từ viết bằng chữ Hán để giải nghĩa, thiết lập hệ thống thuật ngữ kiến trúc cung đình Huế và những khái niệm kiến trúc liên quan đến công việc thiết kế Kinh đô Huế. Nghiên cứu hệ thống ký tự được ghi bằng mực nho hoặc được chạm khắc vào các cấu kiện gỗ để tìm hiểu phương pháp định vị không gian kiến trúc cung đình Huế và phương pháp đánh số cấu kiện áp dụng cho việc thi công xây dựng công trình.

Bên cạnh đó, chúng tôi đã thực hiện hàng loạt các chuyến khảo sát nghiên cứu điền dã ở các làng nghề mộc truyền thống, lập lý lịch đối với 18 phường thợ nghề mộc có tay nghề cao trên toàn quốc (bảng 4), phỏng vấn tìm hiểu các loại dụng cụ của thợ mộc, phương pháp thiết kế các loại hình kiến trúc truyền thống như đình, chùa, nhà thờ gia tộc, nhà rường (loại hình nhà ở dân gian phổ biến ở khu vực miền Trung) để đúc kết phương pháp thiết kế kiến trúc truyền thống, từ đó tham khảo cách thức và quy trình để xây dựng giả thuyết về phương pháp thiết kế kiến trúc cung đình Huế.

1.7. Nghiên cứu vật liệu và kỹ thuật xây dựng truyền thống (G)

Cũng trên cơ sở gợi ý từ thông tin sử liệu về các loại vật liệu đã được huy động để kiến thiết Kinh đô Huế, chúng tôi đã tiến hành sưu tầm tìm hiểu về các loại vật liệu như: Tứ Thiết Mộc (Đinh-Lim-Sến-Táu), Thiết Chuyên (gạch Bát Tràng), Điều Chuyên (gạch Vồ), Hoa Chuyên (gạch hoa), Thanh Thạch (đá Thanh Hoá), Pháp Lam (đồng tránh men), Son Chu (sơn ta), Lưu Ly Ngoã (ngói tráng men), Âm Dương Ngoã (ngói âm dương), Bình Ngoã (ngói liệt) và các loại vôi vữa truyền thống khác. Phần lớn những loại vật liệu nêu trên tuy không phổ biến nhưng vẫn còn được sản xuất ở những làng nghề truyền thống rải rác trên toàn quốc (tính cho đến thời điểm khảo sát vào những năm 1998-2006). Một số mẫu vật đã được gửi sang Nhật để phân tích, những kỹ thuật thất truyền đã được nghiên cứu phục hồi như Pháp Lam 3 và Vữa vôi truyền thống dùng trong Di tích Huế 4.

Bên cạnh đó, tiến hành phỏng vấn các nghệ nhân nghề truyền thống liên quan đến công cuộc kiến thiết Kinh đô Huế được ghi chép trong sử liệu như: Nghề sơn mài (làng Đồng Kỵ-Hà Tây, Tiên Nộm-Huế), chế tạo vàng quỳ (Kiêu Kỵ-Hà Nội), khai thác sơn ta (Phú Thọ), khai thác đá Thanh (Núi Nhồi-Thanh Hoá), khai thác gỗ (Nam Đông, Bình Điền -Thừa Thiên Huế), sản xuất gạch và ngói lợp (Bát Tràng-Hà Nội), đúc gò đồng (Phường Đúc-Huế) để ghi nhận và học hỏi những kinh nghiệm, kỹ thuật truyền thống phục vụ cho công việc nghiên cứu vật liệu và kỹ thuật xây dựng truyền thống.

1.8. Nghiên cứu về sự chuyển đổi hình thái kiến trúc (H)

Hình thái của di sản kiến trúc thông qua thời gian sử dụng với những hoạt động sửa chữa, cải tạo luôn bị thay đổi, hoặc có thể đã bị méo mó so với nguyên bản. Vì vậy, để có sự chọn lựa khung thời gian phù hợp cho việc tái thiết, hình thái kiến trúc được lựa chọn cần phải biểu đạt được giá trị đặc trưng của di sản kiến trúc đó vào thời kỳ hoàng kim của nó.

Đối với trường hợp Điện Cần Chánh, đã có sự thay đổi lớn về hình thái kiến trúc từ khi được khởi dựng vào thời Gia Long (1802-1820), tồn tại qua thời Khải Định (1916-1925), Bảo Đại (1925-1945) và bị huỷ hoại vào năm 1947. Hình thái kiến trúc vào giai đoạn nào sẽ được lựa chọn để tái thiết là vấn đề cần được luận bàn, lý giải thấu đáo dựa trên kết quả nghiên cứu về quá trình chuyển đổi hình thái kiến trúc của di sản.

1.9. Nghiên cứu mô hình thực nghiệm (I)

Trong quá khứ đã từng tồn tại cách để hình dung ý tưởng thiết kế, hình thức kiến trúc và phương thức kết cấu của công trình muốn xây dựng bằng phương pháp mô hình (được làm bằng đất sét nung, gỗ hoặc kim loại), phương pháp này đang dần bị lãng quên do việc sử dụng công nghệ computer đã phổ biến với các hình ảnh 3D rất thuận tiện cho việc quan sát không gian ba chiều của kiến trúc.

Phương pháp nghiên cứu thiết kế mô hình giúp kiểm chứng một cách trực quan hình thức kiến trúc, khả năng kết cấu chịu lực và tính khả thi của biện pháp thi công. Phương pháp này rất quan trọng đối với các công trình kiến trúc di sản bằng gỗ vì các cấu kiện được ghép với nhau bằng mộng truyền thống, liên kết với nhau để truyền lực và triệt tiêu lực giúp công trình đạt được sự ổn định kết cấu và cân bằng thẩm mỹ. Trong trường hợp thiết kế chưa tối ưu, có thể tháo rời mô hình này để nghiên cứu khắc phục những điểm yếu đó.

Thông thường, tỷ lệ mô hình thích hợp sẽ là 1/200 đến 1/100 cho việc nghiên cứu quy hoạch khu đất hoặc cụm công trình kiến trúc di sản, 1/20 đến 1/10 cho việc nghiên cứu tỉ lệ kiến trúc, 1/5 cho việc nghiên cứu kết cấu và 1/1 cho việc nghiên cứu các hoa văn hoạ tiết trang trí. Như vậy, việc nghiên cứu mô hình thực nghiệm trong trùng tu và tái thiết di sản kiến trúc giống như một bài toán nháp nhằm tránh những sai sót kỹ thuật có thể gặp phải (hình 2).

2. Nguyên tắc “Tứ Định” trong phương pháp luận nghiên cứu tái thiết

Nguyên tắc “Tứ Định” bao gồm 4 phương pháp phân tích nền tảng trong nghiên cứu khoa học bao là: Phân tích định tính (Qualitative analysis), Phân tích định lượng (Quantitative analysis), Phân tích định hình (Featuring analysis) và Phân tích định giá trị (Valuating analysis). Những phương pháp nêu trên cần được áp dụng một cách linh hoạt (đơn lẻ, đồng thời hoặc không đồng thời, trình tự hoặc phi trình tự) để đạt được mục tiêu nghiên cứu.

2.1. Phân tích định tính

Thông tin định tính thường là tên gọi, vị trí toạ lạc, trục, hướng công trình, lịch sử xây dựng và tu bổ, chức năng sử dụng, tầm quan trọng, sự phân cấp công trình v.v.. Để có dữ liệu phân tích định tính cần áp dụng kết hợp các hướng tiếp cận (A), (B) và (H).

2.2. Phân tích định lượng

Thông tin định lượng thường là quy mô nền móng, chiều cao công trình, độ dốc mái, chủng loại vật liệu và đặc tính lý hoá, kích thước, số lượng và trọng lượng các cấu kiện tham gia kết cấu, tải trọng hệ mái, sức chịu tải của nền móng. Để có dữ liệu phân tích định lượng cần áp dụng kết hợp các hướng tiếp cận (C), (D), (E), (G) và (I).

2.3. Phân tích định hình

Thông tin định hình thường là hình dáng công trình, sự biến đổi hình thái kiến trúc, màu sắc, cách bố trí không gian nội ngoại thất, các hình thức trang trí mái, và motif trang trí nội ngoại thất v.v.. Để có dữ liệu phân tích định hình cần áp dụng kết hợp các hướng tiếp cận (A), (B), (D), (E), (F) và (I).

2.4. Phân tích định giá trị

Thông tin định giá trị thường là sự ước tính hiệu quả các phương pháp tiếp cận nghiên cứu, tính khả thi của kết cấu, hiệu quả thẩm mỹ của hình thức biểu hiện, cấp độ và thời lượng sử dụng, sự hữu ích của công trình sau khi tái thiết, sự tác động tích cực đến xã hội và môi trường văn hoá, cảnh quan thiên nhiên v.v.. Để có dữ liệu phân tích định giá trị cần áp dụng kết hợp các hướng tiếp cận ((B), (G), (H) và (I).

Đới với công việc nghiên cứu tái thiết những di sản kiến trúc đã bị mất thì phương pháp phân tích định lượng và định hình là trọng yếu nhằm cung cấp thông tin liên quan đến giá trị hữu hình (tangible values), phương pháp phân tích định tính và định giá là thứ yếu cung cấp thông tin liên quan đến giá trị vô hình (intangible values) của di sản.

Kết luận

Điện Cần Chánh là một tác phẩm kiến trúc đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách kiến trúc cung điện Nguyễn ở Huế. Thông qua việc kiểm chứng thông tin từ các nguồn tư liệu chính sử và các thư tịch cổ có thể khẳng định rằng thông tin về sự tồn tại và các giá trị của ngôi Điện này là hoàn toàn xác thực.

Trên cơ sở vận dụng lý luận, kinh nghiệm trùng tu di sản kiến trúc và điều kiện về thiết bị công nghệ, chúng tôi đề xuất phương pháp luận nghiên cứu tái thiết được cấu thành bởi 9 hướng tiếp cận nghiên cứu và 4 phương pháp phân tích theo nguyên tắc “Tứ Định” gồm định tính, định lượng, định hình và định giá trị, làm nền tảng cho việc triển khai các hạng mục nghiên cứu theo định hướng của nhiệm vụ bảo tồn sẽ được lần lượt trình bày trong những bài nghiên cứu tiếp theo.

TS.KTS. Lê Vĩnh An
Viện trưởng Viện Kỹ thuật & Công nghệ Việt-Nhật, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng
GS.TS. Nakagawa Takeshi
Giám đốc Bảo tàng Mejimura, Giáo sư Viện Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản
KS. Nguyễn Thế Sơn
Phó Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế và các đồng nghiệp Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 02-2023)

Xem thêm:


Chú thích:
1) Cuộc thám sát khảo cổ học nền móng Điện Cần Chánh (góc Tây-Nam) được thực hiện bởi đội ngũ nghiên cứu của GS. Kiguchi (Đại học Waseda) và các chuyên gia khảo cổ học gồm Trịnh Nam Hải, Huỳnh Anh Vân, Phan Thuý Vân; các chuyên gia kỹ thuật gồm Lê Vĩnh An, Đỗ Hữu Triết, Lê Phước Tân (Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế), Huế, tháng 08/2008.
2) Lê Vĩnh An & Trương Ngọc Quỳnh Châu, “Practicing on the re-construction study of “Can Chanh Dien” Palace, Hue Imperial City, Vietnam-world cultural heritage”, International Journal of Architectural Heritage, https://doi.org/10.1080/15583058.2019.1612483
3) Đỗ Hữu Triết, luận văn Thạc sĩ ngành Quang học “Màu và men màu cho đồ gốm sứ trong di tích Huế”, Đại học Khoa học Huế, 2006.
4) Phùng Phu & Đỗ Hữu Triết, “Nghiên cứu phục hồi vữa vôi truyền thống trong Di tích Huế” (Đề tài khoa học cấp tỉnh), Huế 2003-2008.