Quá trình hình thành, phát triển Hà Nội gắn với yếu tố làng và làng nghề thủ công phục vụ đời sống dân cư. Kể từ khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, dân từ mọi nơi kéo về đây sinh cư, lập nghiệp và mang theo cả các nghề, thực sự đánh dấu sự thay đổi to lớn đối với Hà Nội.
Qua thời gian giao lưu, nhằm đáp ứng nhu cầu của dân cư kinh thành, không chỉ dừng ở nghề truyền thống của cha ông, các nghệ nhân nhanh chóng học hỏi một số nghề thủ công nước ngoài như: Nghề dệt thao Trung Quốc truyền dạy cho dân làng Triều Khúc thời Lê; thêu ren, đăng ten từ Pháp… đã làm phong phú thêm cho các nghề thủ công ở Thăng Long – Hà Nội.
Dưới các thời Lý, Trần, Lê, các thợ giỏi, tài hoa, khéo léo từ các làng nghề truyền thống của cả nước được triều đình trưng tập về kinh đô xây dựng kinh thành, sau đó ở lại đây và sinh cư, lập nghiệp. Các đời vua nhà Lý (quê gốc Đình Bảng), nhà Trần (quê miền biển), nhà Lê, Lê – Trịnh (ở Thanh Hóa, Nghệ An)… khi định đô ở Thăng Long, Đông Đô đều kéo theo rất nhiều thợ thủ công tài giỏi. Vì thế, có thể thấy: Hầu như các nghề trên cả nước đều có ở Hà Nội nhưng ở mức tinh xảo hơn, tạo nên đặc trưng văn hóa làng nghề Thăng Long – Hà Nội. Các phường thủ công, các thợ giỏi từ các vùng miền về đây đua sức, tranh tài, họ phải giỏi nghề, tạo ra được sản phẩm đặc sắc thì mới trụ lại, sinh cơ lập nghiệp được ở đất Thăng Long.
Thăng Long thời Lý Trần có 61 phường, đến thời Lê có 36 phường và 12 nghề thủ công. Đến thời Nguyễn và thời thuộc Pháp sau này, việc làm ăn, buôn bán ở Thăng Long – Hà Nội ngày càng trở nên sôi động, giao thông đường xá được mở mang, cách thức sản xuất và buôn bán sản xuất tại chỗ kiểu phường hội cũng thay đổi, cấu trúc chức năng một căn nhà cũng không còn là nơi kết hợp ở + buôn bán + sản xuất nữa mà chuyển sang dạng cửa hiệu của các tuyến phố buôn bán chung một mặt hàng, không chỉ sản xuất tại chỗ mà còn liên kết với các làng nghề. Trong mỗi khu vực vẫn giữ được các đình thờ tổ nghề, mỗi khi có lễ hội thì các nghệ nhân bái vọng về quê hương của họ.
Những tên phố Hàng ngày nay cũng thể hiện được ngành nghề và mặt hàng của phường hội nghề truyền thống trước đây, đặc biệt là trong khu phố cổ. Những người thợ thủ công khi về kinh thành đã đem theo phong tục tập quán, tín ngưỡng, lối sống, nếp nghĩ, những chuẩn mực đạo đức, giá trị văn hóa từ làng quê họ sinh ra và lớn lên, làm cho văn hóa Thăng Long tỏa sáng, lung linh, phong phú và đa dạng hơn, đồng thời cũng kết nối giữa các phố ở kinh thành và các làng nghề – nơi chốn của các nghệ nhân. Và Làng nghề – phố nghề đã trở thành nét đặc sắc của văn hóa làng nghề Hà Nội:
– Các làng: Định Công (quận Hoàng Mai), Châu Khê (Hải Dương), Đồng Xâm (Thái Bình) với nghề chạm bạc, lập nên phố Hàng Bạc có đình Kim Ngân thờ tổ sư nghề đúc bạc;
– Làng Chuyên Mỹ (Phú Xuyên) với nghề khảm trai trên đồ gỗ và đồ mỹ nghệ sơn mài, lập nên phố Hàng Khay, Tràng Tiền;
– Làng Bát Tràng (Gia Lâm) với nghề gốm với các sản phẩm bát, đĩa, niêu… lập nên phố Bát Đàn có đình Nhân Nội;
– Làng Đa Hội (Đông Anh) với nghề rèn sắt, lập nên phố Lò Sũ, Lò Rèn;
– Làng Hòe Thị (Từ Liêm) với nghề rèn nông cụ như mai, thuổng, răng bừa, lưỡi cày, lập nên phố Sinh Từ, Lò Rèn có đình Lò Rèn;
– Làng Ninh Hiệp (Bắc Ninh) và Hưng Yên với nghề thuộc da, lập nên phố Hàng Da;
– Làng Liễu Viên (Thường Tín) với nghề mộc, lập nên phố Lò Sũ;
– Làng Quất Động (Thường Tín) với nghề thêu, lập nên phố Hàng Thêu, Hàng Hành;
– Làng Nhị Khê (Thường Tín) với nghề tiện gỗ, làm kính, làm khóa, lập nên phố Hàng Tiện, Tô Tịch;
– Làng Đông Mai (Thuận Thành, Bắc Ninh) với nghề đúc đồng, lập nên phố Ngũ Xã;
– Làng Giới Tó (Yên Phong, Bắc Ninh) với nghề làm mành, lập nên phố Hàng Mành;
– Làng Bưởi (xã Đại Bái, Thuận Thành, Bắc Ninh) với nghề đúc đồng, gò đồng và làng Cầu Nôm (Khoái Châu, Hưng Yên) làm nghề buôn bán đồng nát, lập nên phố Hàng Đồng;
– Làng Liêu Xá (Yên Mỹ, Hưng Yên) với nghề làm trống, làm lọng và làng Đọi Tam (Hà Nam) làm trống, lập nên các phố Hàng Trống, Hàng Lọng;
– Làng Hới (Hưng Hà, Thái Bình), Nga Sơn (Thanh Hóa), Kim Chính (Hoa Lư, Ninh Bình) với nghề dệt chiếu, lập nên phố Hàng Chiếu;
– Làng Đan Loan (Bình Giang, Hải Dương) với nghề nhuộm tơ, lụa đã lập nên phố Hàng Đào (Hàng Điều) có đình Hoa Lộc;
– Làng Thọ Vực (Văn Giang, Hưng Yên) với nghề làm sơn, lập nên phố Nam Ngư;
– Làng Đào Xá (Ân Thi, Hưng Yên), Canh Hoạch ( Thanh Oai) nổi tiếng với nghề làm quạt giấy, lập nên phố Hàng Quạt có đền Xuân Phiến;
– Làng Canh (huyện Hoài Đức) và làng Đa Sỹ (Kiến Hưng, quận Hà Đông) với nghề làm dao kéo đã lập nên phố Sinh Từ (Nguyễn Khuyến ngày nay)…
Có thể nói, việc các làng nghề phát triển lên thành các phố nghề để tạo thành các cơ sở buôn bán, giới thiệu sản phẩm không chỉ minh chứng cho sự phát triển của các nghề thủ công truyền thống, mà quan trọng hơn, đã tạo thành nét đặc trưng, góp phần làm phong phú thêm cho đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của Thăng Long – Hà Nội xưa và nay.
KTS Nguyễn Phú Đức
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 01-2018)