Quy hoạch và bảo tồn các làng nghề truyền thống Quận Nam Từ Liêm

Vốn là vùng đất ở cửa ngõ phía Tây của thủ đô, vùng Từ Liêm chiếm một vị trí hết sức quan trọng với nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch kết nối với khu vực trung tâm Hà Nội. Đây còn là vùng đất có lịch sử lâu đời. Tên gọi Từ Liêm đã xuất hiện ở thời Trần, đến thời Lê thuộc trấn Sơn Tây và là một trong ba huyện của phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội vào năm 1831. Từ năm 1888, đất Từ Liêm lệ vào phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông và tên huyện Từ Liêm bị bỏ và được lập lại vào năm 1961. Trước năm 2013, Từ Liêm là một huyện ngoại thành Hà Nội. Theo Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến 2030, tầm nhìn 2050, quận Nam Từ Liêm là một trong những đô thị lõi – trung tâm hành chính, dịch vụ, thương mại của thủ đô Hà Nội.

Những giá trị riêng biệt của vùng đất “tứ danh hương” – Nam Từ Liêm

Quận Nam Từ Liêm được thành lập trên cơ sở các xã: Mễ Trì, Mỹ Đình, Trung Văn, Tây Mỗ, Đại Mỗ; một phần diện tích đất tự nhiên và dân số của xã Xuân Phương và thị trấn Cầu Diễn phía Đông sông Nhuệ. Đây cũng là những làng truyền thống “danh bất hư truyền” gắn bó chặt chẽ với vùng Thăng Long xưa1. Từ Mỗ là một từ Nôm cổ rất xa xưa, cho thấy vùng đất Mỗ là đất cổ.

Làng nghề của đất Từ Liêm bắt nguồn gốc nông nghiệp và là một vùng cung ứng sản vật cho Kinh thành. Thăng Long xưa truyền tụng câu ca “Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương” và “Nhất Mỗ, nhì La, thứ ba Canh, Cót”. Mỗ (vùng Đại Mỗ), La (vùng La Khê – La Cả); Canh (vùng Xuân Phương); Cót (vùng Yên Hòa, Trung Hòa).

  • Làng Đại Mỗ – vùng đất “địa linh nhân kiệt”, vị trí cận thủy nằm bên sông Nhuệ. Làng Mỗ vốn có truyền thống hiếu học, có nhiều danh lớn văn võ song toàn được ghi vào sử sách như Nguyễn Quý Đức, Lê Cảnh Hưng, Nguyễn Vũ… Người Đại Mỗ còn có nghề truyền thống dệt lĩnh, dệt lụa cực tinh xảo, sản phẩm thường được bán ở các phố Hàng Ngang, Hàng Đào. Lĩnh trơn nhồi tía may quần áo, lĩnh hoa nhuộm màu may áo dài được người dân Thăng Long và các tỉnh ưa chuộng. Bởi vậy, người Mỗ từ lâu không chỉ nổi tiếng khắp thiên hạ bởi tài cao, học rộng mà nghề lĩnh, lụa Đại Mỗ nức tiếng mười phương.
  • Mễ Trì – tên nôm là Kẻ Mẩy, gồm có 3 thôn: Mễ Trì Thượng, Mễ Trì Hạ và Phú Đô. Cốm Mẩy cùng là đặc sản Hà Nội, cùng với bún Phú Đô, gạo Tám thơm. Là vùng đất trũng ruộng rộng phì nhiêu, người dân có trình độ thâm canh nên làng có rất nhiều thóc (tên gọi “Mễ Trì” – nghĩa là “ao gạo”). Dân gian lưu truyền câu “Lắm quan kẻ Mọc, lắm thóc Mễ Trì”. Gạo tám xoan Mễ Trì là đặc sản nổi tiếng ở miền Bắc, xưa từng là sản vật tiến vua, đã đi vào ca dao: Cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì/ Tương Bần, húng Láng, còn gì ngon hơn. Và không mấy ai còn biết, làng Mễ Trì Thượng và Hạ xưa cả nam nữ còn rất giỏi võ.
  • Mỹ Đình có lịch sử hình thành từ khoảng thế kỷ 15, tên gọi cũ là Làng Quả Hối được ghi trong sách Đại Việt sử ký toàn thư.
  • Trung Văn được hình thành từ 2 làng cổ Trung Văn và Phùng Khoang. Thời Lê thuộc trấn Sơn Nam Thượng, cũng là nơi sản xuất nhiều lúa gạo nên ngạn ngữ có câu “Quan làng Mọc, thóc làng Khoang”.
  • Tây Mỗ là một làng cổ ven đô giàu truyền thống văn hóa lưu truyền trong tứ danh hương, đứng đầu trong các vùng đất có truyền thống văn hóa, khoa bảng. Nơi đây còn lưu giữ cấu trúc không gian cảnh quan, kiến trúc mang đậm phong vị miền quê Bắc Bộ, làm bối cảnh cho các bộ phim đề tài nông thôn, được mệnh danh là làng Hollywood của Việt Nam.

Việc lưu giữ trong mình những cấu trúc độc đáo và những giá trị riêng biệt của các làng truyền thống, làng nghề truyền thống là tiềm năng để quận Nam Từ Liêm định hướng cho kế hoạch phát triển lâu dài, bền vững dựa trên các yếu tố lịch sử, bản địa nhân văn và vị trí trung tâm hành chính phía Tây của thủ đô.

Hiện trạng không gian kiến trúc cảnh quan các làng nghề truyền thống

Sau khi thay đổi địa giới hành chính quận Nam Từ Liêm gồm có 10 phường và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/4/2014. Đó là mốc thời gian đánh dấu sự chuyển đổi bước ngoặt của một địa bàn mang tính chất nông thôn sang địa bàn mang tính chất đô thị với sự thay đổi toàn diện trong phương thức tổ chức, quản lý đời sống kinh tế – xã hội. Nhưng có thể thấy, cấu trúc cơ bản của những làng truyền thống, làng nghề truyền thống tiêu biểu của vùng Hà Nội cổ nằm trong một phần trong quận.

Mặc dù là quận mới thành lập nhưng Nam Từ Liêm đã nhanh chóng trở thành khu vực có tốc độ phát triển bậc nhất tại Hà Nội bởi bao trọn khu vực hành chính mới của Thủ đô, trở thành điểm thu hút đầu tư hấp dẫn đối với các chủ đầu tư lớn, uy tín và có tên tuổi.

Xen giữa làn sóng đô thị hóa dồn dập đó, vẫn còn “lác đác” những làng và làng nghề truyền thống nằm trên địa bàn quận. Tiêu biểu như Nghề sản xuất bún (phường Phú Đô), nghề sản xuất Cốm (phường Mễ Trì); nghề sản xuất dây đai kiện (phường Trung Văn); nghề cơ khí, rèn (phường Phương Canh); nghề gò hàn tôn (phường Tây Mỗ). Tuy nhiên, do hiện nay không đáp ứng được cơ chế kinh tế mới nên các làng nghề sản xuất dây đai kiện Trung Văn, rèn Phương Canh, gò hàn tôn Tây Mỗ đã dần bị mai một, chỉ còn lại rất ít một số hộ gia đình có hoạt động sản xuất tự phát.

Có 02 làng nghề truyền phát triển và đáp ứng tiêu chí công nhận theo Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn là Làng nghề sản xuất bún Phú Đô và Làng nghề sản xuất cốm (phường Mễ Trì) được công nhận danh hiệu “Làng nghề truyền thống Hà Nội”.

Các làng nghề truyền thống đều nằm ở vị trí trung tâm khu vực phát triển sôi nổi, tiếp giáp hệ thống đường giao thông nội đô và đại lộ quan trọng. Đại lộ Thăng Long là tuyến cao tốc nối khu trung tâm Hà Nội với quốc lộ 21A cũ chạy cắt qua các làng Mễ Trì, Phú Đô, Đại Mỗ, Tây Mỗ… tác động mạnh mẽ làm chuyển biến lớn trong cấu trúc làng xã, chuyển đổi mô hình kinh tế nông nghiệp và biến động di dân. Đây cũng chịu số phận như nhiều ngôi làng nghề truyền thống khác nằm trong đô thị.

Làng nghề truyền thống đứng trước 2 nguy cơ: Mất nghề (vì không có khu vực sản xuất cung ứng nguyên liệu để làm nghề, sản xuất manh mún)và “xóa sổ” làng (vì quy hoạch, dự án xây dựng mới lấn át làng cũ. Phần vì khó khăn trong việc xử lý môi trường ở các làng nghề nằm xen kẽ khu dân cư trong đô thị).

Đối với 2 làng nghề hiện còn ở Nam Từ Liêm, chính quyền mới đề cập đến các giải pháp thúc đẩy thương hiệu sản phẩm bảo tồn nghề nhưng chưa có quy hoạch làng nghề trong tổng thể quy hoạch chung của quận và quy hoạch bảo tồn gắn kết thành chuỗi du lịch làng nghề của quận với Hà Nội và các vùng lân cận.

Các làng truyền thống quận Nam Từ Liêm nằm phân tán bám theo sông Nhuệ, nhưng mỗi làng lại co cụm thành các khu vực biệt lập, lấy đồng ruộng làm ranh giới. Các làng còn gìn giữ rất tốt các truyền thống lễ hội, các di tích các Đình như Đại Mỗ, Hòe Thị, Mễ Trì, Phùng Khoang…), các Chùa như Mễ Trì Thượng, Phùng Khoang, Mễ Trì Thượng, Phú Đô…, Chùa/Quán Thanh Xuân (Phùng Khoang), miếu Nguyên Xá và cụm di tích nhà thờ họ Nguyễn Quý… có niên đại thế kỷ 16-17. Đặc biệt là nhà thờ giáo xứ Phùng Khoang có lối kiến trúc tân cổ điển là một trong những nhà thờ đẹp ở Hà Nội…

Khác với cảnh quan không gian của 2 làng nghề Cốm Vòng và bún Phú Đô bị thay đổi, lấn át bởi công trình cao tầng, hiện đại và hệ thống hạ tầng đô thị, thì còn lại những không gian làng truyền thống của làng Phùng Khoang, Tây Mỗ với hệ thống đường làng, ao làng, cổng làng, nhà cổ và các ngõ ngách. Hiếm có một khu vực nào bị đô thị hóa mạnh như quận Nam Từ Liêm còn lưu truyền lại những giá trị văn hóa lịch sử và di sản kiến trúc như vậy.

Tuy nhiên, các di tích có hiện tượng bê tông hóa, thay đổi kiểu dáng qua những lần sửa chữa. Sự chuyển dịch kinh tế nông nghiệp – phi nông nghiệp làm mất hẳn vị trí quan trọng của cái đình. Việc phát triển kinh tế xã hội, kinh tế thị trường cũng dẫn đến sự thương mại hóa, thị trường hóa lễ hội của nhiều di tích… Cổng làng xưa vốn là điểm nhận diện để tiếp cận vào làng, thì nay đủ to, đủ rộng để các loại phương tiện cơ giới có thể tiếp cận dễ dàng vào làng đô thị. Cổng làng Phú Đô, Phú Mỹ, làng Vòng dù vẫn giữ tên làng cũ nhưng lạc lõng bởi kiến trúc và màu sắc. Không gian làng nghề bị thiếu đất canh tác cung ứng nguyên liệu tạo ra sản phẩm nghề. Môi trường làng nghề bị ô nhiễm không chỉ do chất thải sản xuất mà còn do tiếng ồn, khí thải của đô thị. Cũng chính vì thế, vệ sinh an toàn thực phẩm là điều tiên quyết ảnh hưởng đến thương hiệu làng nghề, mà đã có lúc cả làng bún và làng cốm đứng trước ngưỡng cửa lao đao. Làng bún Phú Đô đã được đưa vào danh mục xử lý môi trường làng nghề trong Đề án Quy hoạch làng nghề của TP.

Định hướng quy hoạch bảo tồn

Trong quan điểm bảo tồn, cần xác định bên cạnh việc giữ nghề, lưu truyền phương thức sản xuất nghề thì phải bảo tồn không gian cảnh quan và các điểm di tích trong làng nghề. Với trường hợp quận Nam Từ Liêm, cần có nghiên cứu quy hoạch bảo tồn các làng truyền thống và làng nghề truyền thống. Việc duy trì được quỹ làng này trong đô thị sẽ tạo nên tính đặc trưng, độc đáo riêng của quận. Sau khi điều chỉnh quy hoạch chung thủ đô Hà Nội, việc điều chỉnh ranh giới hành chính của thủ đô đã tạo ra nhiều khu vực trong đô thị còn hiện hữu lối sống làng xã. Cấu trúc làng cũ bị phá bởi những tác động quy hoạch mới, cùng với cấu trúc của đô thị bị phân cách bởi các làng hiện hữu. Biến một cụm dân cư đã được hình thành hàng trăm năm, gắn bó bền chặt với lịch sử, văn hóa và cấu trúc xã hội không đơn giản chỉ cải tạo, chỉnh trang hay sửa đổi.

Đối với công tác bảo tồn và phát triển nghề: Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề thông qua việc gắn kết các hoạt động văn hóa, lễ hội, nghi thức truyền thống. Các nội dung hoạt động này có dự gắn kết với các không gian, công trình truyền thống.

Đối với quy hoạch cảnh quan kiến trúc làng nghề: Đối với làng nghề truyền thống quận Nam Từ Liêm phù hợp với việc áp dụng mô hình đô thị làng.

Xác định đây là đối tượng bảo tồn các giá trị đặc trưng của một mô hình cư trú điểm dân cư nông thôn truyền thống vẫn đang tồn tại và phát triển, từ đó tôn vinh sản phẩm làng nghề. Đô thị hóa có tác động đến không gian kiến trúc cảnh quan hạ tầng của các làng xóm ven đô, vì vậy cũng cần phải tuân thủ việc tạo lập hình ảnh, gìn giữ giá trị cảnh quan thiên nhiên trong quá trình phát triển, tích hợp khéo léo, khoa học các giá trị vật chất, văn hóa lịch sử là những di sản của quá khứ vào không gian đô thị.

  • Các quy hoạch ngành phải gắn với tổng thể quy hoạch chung xây dựng để tìm sự gắn kết từ hệ thống giao thông, từ lựa chọn khu vực hợp lý cho đô thị hoá, dành đủ đất thích hợp cho sản xuất làng nghề, đổi mới mô hình quản lý để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Cùng với đổi mới sản xuất với các làng nghề hiện còn thách thức giữa phát triển, ứng dụng kỹ thuật mới với bảo tồn giá trị di sản, phát triển sản phẩm đặc thù hoặc kết hợp sản xuất với du lịch, làng sinh thái. Lựa chọn mô hình sản xuất hợp lý (hộ cá thể, HTX, doanh nghiệp…).
  • Xác định các điểm di tích và các không gian công cộng quan trọng liên quan đến các hoạt động của làng nghề.
    Quy hoạch không gian làng xã nhất thiết phải lưu giữ các di sản và cảnh quan kiến trúc truyền thống còn lại. Hệ thống các di tích (đình, đền, chùa…tại các xã Xuân Phương, Mỹ Đình, Mễ Trì, Tây Mỗ, Đại Mỗi) và các yếu tố cảnh quan (cây đa, giếng nước, ao làng, đường làng…ở Tây Mỗ, Đại Mỗ) còn lại phải tận dụng không gian cho các hoạt động văn hóa cộng đồng và truyền dạy nghề;
  • Lồng ghép các sinh hoạt tập thể (văn hóa tinh thần, hội họp, lễ hội truyền thống, ….) vào các công trình này (như đình, một số không gian của nhà thờ…) để tiết kiệm tiền của và quỹ đất xây dựng các công trình công cộng.
  • Xây dựng các khu chức năng dành cho các hoạt động làng nghề: Khu hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống giao thông nội bộ làng nghề; Hệ thống hạ tầng kỹ thuật dịch vụ du lịch được bố trị các công trình dịch vụ thuận lợi cho du khách (vệ sinh công cộng, kiốt bán hàng…); Cải tạo, chỉnh trang mặt tiền tuyến phố, công trình đối với những nhà dân còn giữ lại kiến trúc cổ/cũ để khôi phục không gian, cảnh quan khu vực làng nghề; Hệ thống thoát và xử lý nước thải, thu gom rác đảm bảo VSMT và cảnh quan; Hệ thống chiếu sáng đường, chiếu sáng công trình và các điểm thiết chế văn hóa dành cho sinh hoạt cộng đồng.
  • Tại các khu vực làng cũ và các khu vực dân cư mới cần được kết nối bằng hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị. Cần xét xét các dự án quy hoạch phát triển khu đô thị mới lân cận khu vực làng nghề. Tạo quỹ đất mở xung quanh khu vực làng làm vùng đệm để phát triển dịch vụ công cộng và dãn dân.

Cải tạo không gian cảnh quan kiến trúc: mặt đứng nhà, cây xanh, khoảng không gian mở. Quy định chỉ giới đường đỏ và chỉ giới xây dựng trên các đoạn đường. Đề xuất chiều cao cho phép đối với các công trình xây dựng dọc tuyến phố làng trung tâm.

Với các khu dân cư cũ tập trung manh mún cần giải toả: Di dời ra các khu xóm mới để giảm mật độ tập trung, nâng cao chất lượng môi trường sống. Các khu cũ bảo tồn có thể nắn chỉnh hướng nhà, mặt nhà để tạo ngôn ngữ tuyến phố đồng bộ và nhất quán.

Thay lời kết

Sau 5 năm, quận Nam Từ Liêm là một trong những vùng có nhiều dự án trọng điểm, có tốc độ phát triển “đột phá” với nhiều công trình kiến trúc hiện đại và quan trọng của TP – Hướng tới xây dựng quận thành một đô thị kiểu mẫu – đô thị xanh, văn minh và hiện đại, gắn với công tác bảo tồn làng nghề và các giá trị văn hóa lịch sử. Bởi vậy, để tạo sự bền vững trong phát triển dài lâu của quận thì định hướng quy hoạch chung cần gắn với quy hoạch “làng nghề và làng truyền thống”, nhằm là phát huy lợi thế của yếu tố “làng trong đô thị”, vốn là hằng số bất biến trong hầu hết các đô thị Việt Nam.

TS. Tạ Hoàng Vân
Viện Kiến trúc Quốc gia
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 03-2019)