Đôi điều về phong cách và xu hướng nghệ thuật

Hai thuật ngữ phong cách (style) và xu hướng (tendency/ ism (trường phái)…) luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm từ những người yêu thích nghệ thuật. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến những gì đang diễn ra xung quanh hai thuật ngữ này để góp thêm một góc nhìn khác.

Hoa Phong House-Đà Nẵng
Hoa Phong House-Đà Nẵng

PHONG CÁCH VÀ XU HƯỚNG TRONG NGHỆ THUẬT

Những người làm nghề thiết kế hầu như ai cũng từng không ít lần băn khoăn về hai khái niệm “Phong cách – style” và “Xu hướng – tendency/ ism (trường phái). Nỗi băn khoăn này có những lý do như: 1) Cố gắng hiểu cho rõ bản chất và cách thức biểu hiện trong phong cách của các tác giả cũng như các trường phái đã và đang nổi tiếng là gì; 2) Cố gắng hình thành cho bản thân một phong cách thiết kế đặc sắc nhất có thể. Để giải quyết câu hỏi thứ nhất có thể chỉ cần cố gắng tìm hiểu từ các bài viết, sách báo, trang mạng… Nhưng với câu hỏi thứ hai thì đòi hỏi nhiều thời gian và điều kiện hơn. Vì để đạt được sự thành công và công nhận rộng rãi của công luận là điều không hề dễ dàng.

Đã có rất nhiều phong cách nghệ thuật của các tác giả nổi tiếng lôi cuốn không ít sự hưởng ứng của giới thiết kế toàn cầu, và hiệu ứng này đã tạo nên những xu hướng/ trường phái nghệ thuật khác nhau. Sau sự hưởng ứng ban đầu ấy, chỉ còn lại những tên tuổi quan trọng nhất được kể đến là vì họ đã hưởng ứng các xu hướng/ trường phái ấy bằng việc trình diễn một phong cách thiết kế mới mẻ và khác biệt. Ví dụ: Các KTS thuộc trường phái Biểu hiện Mới (Neo- Expressionism) với ba KTS danh tiếng là: Jorn Utzon với Opera Sydney, Eaero Saarinen với TWA Airport và Oscar Niemeyer với các toà nhà Chính phủ ở thủ đô mới Brasilia.

Đền Parthenon – mẫu mực của diễn giải thị cảm
Đền Parthenon – mẫu mực của diễn giải thị cảm
Bauhaus – tiêu biểu cho diễn giải về Học thuyết Công năng
Bauhaus – tiêu biểu cho diễn giải về Học thuyết Công năng

Những dẫn chứng trên cho thấy các phong cách và xu hướng thiết kế là những đóng góp vô cùng quan trọng trong tiến trình nghệ thuật của nhân loại. Nhưng vị thế đó là dành cho những tác phẩm và kỳ tích to lớn của nhân loại, chúng không thể lẫn lộn với rất nhiều những tác phẩm nghệ thuật còn lại, tuy cũng rất xuất sắc, nhưng ít gây được tiếng vang và sự chú ý của công luận. Đó là vì sự chi phối của quy luật cạnh tranh: Vị trí thời danh chỉ giành cho những người đi hàng đầu, tới đích trước. Nếu Eaero Saarinen không tự mình thoát ra khỏi cái “bóng khổng lồ” của ông thầy Mies van der Rohe thì chắc gì đã đạt được một trong những vị trí hàng đầu thế giới. Tương tự là sự “vượt thoát” khỏi Le Corbusier của Oscar Niemeyer để trở thành kẻ “độc cô cầu bại” ở tầm hành tinh…

NGHỆ THUẬT CỦA SỰ DIỄN GIẢI

Thời kỳ trước những năm 1960, truyền thông về nghệ thuật luôn công bố về các phong cách và xu hướng thời thượng nhất trong thiết kế khiến cho một làn sóng “cuồng” các “ism” diễn ra một cách chóng mặt. Công chúng chưa kịp hiểu tường tận bản chất, đặc thù bên trong những xu hướng và phong cách thời thượng nhất thì đã lại phải dành sự chú ý cho những gì được trình diễn sau đó. Chính sự truyền bá nghệ thuật như vậy đã gây ra không ít ngộ nhận một thời: Công việc quan trọng bậc nhất, sứ mệnh cao cả bậc nhất của giới thiết kế là tạo ra phong cách hoặc là xu hướng. Một cách khái quát nhất, các sáng tạo nghệ thuật trong giai đoạn này thường hướng đến việc tạo nên những phương thức để “thực hiện” tác phẩm theo văn hóa đại diện, đã được các triết gia Hy Lạp cổ đại khẳng định trong ba phạm trù: “Chân – Thiện – Mỹ”. Nghĩa là, các bộ óc thông thái sẽ đại diện nhân loại để khám phá chân lý và tạo nên cái gọi là văn hóa đại diện (representative culture). Điều này đã dẫn công chúng – người thưởng lãm đến thói quen cảm thụ nghệ thuật thông qua sự diễn giải về cái có ích, cái có nghĩa và cái đẹp.

Đáng chú ý là, vì nhà thiết kế – “nguồn phát” – đã nhân danh một ngành chuyên môn hẹp, cung cấp sẵn mọi điều cho người thụ hưởng. Với tư cách là một nhà chuyên môn, họ sắp đặt và diễn giải một cách rõ ràng, cụ thể về công năng, ý nghĩa, thẩm mỹ… trong những sản phẩm của mình. Trong cách thức nêu trên, sự tương tác giữa công chúng – người thưởng lãm và tác phẩm gần như không thể diễn ra. Công chúng – người thưởng lãm khi đó chỉ đóng vai trò là một “nguồn thu”, họ cần phải cố gắng lĩnh hội những sự diễn giải và ý đồ được phát đi từ phía “nguồn phát” – nhà thiết kế. Trong trường hợp này thì phong cách và xu hướng nghệ thuật chắc chắn sẽ đạt được vị thế hết sức quan trọng. Khi công chúng của nghệ thuật trở thành vế thụ động, dĩ nhiên các nhà chuyên môn sẽ mặc sức công bố các tuyên ngôn nghệ thuật sau những phút “thăng hoa” đầy ngẫu hứng của cá nhân.

PHONG CÁCH CỦA NGƯỜI ĐI TRƯỚC

Dù sao thì danh xưng phong cách và xu hướng cũng có sức hấp dẫn rất là mãnh liệt. Vì vậy mà nhà thiết kế tài năng của các thế hệ sau vẫn tiếp tục “trình làng” những sáng tạo “hút hồn” để khẳng định vị trí “độc đáo” của mình trong “làng thiết kế”. Và kỳ lạ thay, dường như tất cả những bậc thầy ấy lại không mảy may quan tâm đến cái danh xưng phong cách/ xu hướng. Vấn đề họ đặt ra một cách nghiêm túc là: Làm thế nào để không là cái bóng của người khác?.

Serpentine Gallery London - Toyo Ito
Serpentine Gallery London – Toyo Ito

Isamu Noguchi, điêu khắc gia người Mỹ gốc Nhật Bản từng nói: “Việc giới hạn bản thân với một phong cách nhất định nào đó có thể khiến bạn trở thành chuyên gia về quan điểm hoặc trường phái cụ thể ấy, nhưng tôi không mong bản thân mình thuộc về bất cứ trường phái nào. Tôi luôn học hỏi và luôn khám phá”. Ông tin tưởng: Sự học hỏi và luôn khám phá mới là trọng tâm trong công việc thiết kế của bản thân. Khi chiêm ngưỡng các điêu khắc của Noguchi, dường như ta đang đọc một câu đố hơn là một lời giải. Và, rất có thể, chính ông cũng không dự định đưa ra một lời giải nào.

Khi biết mình được giải thưởng Pritzker danh giá, Toyo Ito nói: “Kiến trúc được ràng buộc bởi các vấn đề xã hội. Tôi thiết kế kiến trúc với tâm trí thường trực rằng chúng ta có thể phát hiện ra các không gian tiện nghi hơn nếu chúng ta được giải thoát khỏi các hạn chế cho dù chỉ một chút thôi. Tuy nhiên, khi một công trình hoàn thành, tôi đau đớn nhận ra sự không hoàn thiện của bản thân tôi và nó biến thành động lực cho tôi ở những dự án tiếp theo. Có lẽ quá trình này tiếp tục lặp đi lặp lại trong tương lai”. Và ông kết luận: “Chính vì vậy tôi không bao giờ theo đuổi một phong cách kiến trúc và không bao giờ hài lòng với các tác phẩm của mình”. Qua đó thấy rằng: Quan niệm thiết kế của ông chẳng liên quan gì đến phong cách.

Khi nhận được câu hỏi: “Làm thế nào để có những thiết kế độc đáo?” – Chi Wing Lo, nhà thiết kế Italy gốc Hồng Kông trả lời ngắn gọn: “Hãy bỏ qua từ “phong cách” và để cho rõ ràng hơn, ông giải thích: “Đó là phong cách của người khác, không phải của bạn. Khi bạn nói đến phong cách, tức là bạn đang tạo ra cho mình một giới hạn trong thiết kế. Hãy bỏ qua nó và thiết kế theo ý của bạn, cảm hứng riêng của bạn. Chỉ như vậy, bạn mới tạo ra được những thiết kế độc đáo, và lúc đó mọi người mới nói về nó như là phong cách của riêng bạn”

Từ phát biểu của ba nhà thiết kế tài năng không quan tâm đến phong cách trên đây, cho thấy một triết lý rõ ràng: Muốn khẳng định được phong cách và thiết kế độc đáo thì chỉ có thể dựa vào nội lực sáng tạo của chính bản thân mình.

Trong nghề thiết kế, sinh viên không được cổ súy việc sao chép tác phẩm và phong cách của một tác giả nổi tiếng, dù dưới danh nghĩa của nhu cầu học hỏi và rèn luyện. Việc có ích nhất trong mục tiêu nắm bắt các thủ pháp của các bậc thầy (cũng có nghĩa là học hỏi phong cách) là thông qua sự phân tích tác phẩm.

Luật Bản quyền nghiêm cấm việc sao chép tác phẩm của bất kỳ ai. Việc cố tình bắt chước phong cách của một tác giả nổi tiếng cũng là điều luôn bị chê trách, vì không bày tỏ được tinh thần sáng tạo, không vượt qua được cái “bóng dáng khổng lồ” của người khác. Công chúng nghệ thuật chỉ có thể được thuyết phục trước hết bởi việc mỗi tác giả đều phải tự trình bày cho được quan điểm thiết kế của riêng mình, trong những hoàn cảnh thiết kế có tính riêng biệt nhất. Thực vậy, không có một tình thế thiết kế nào là hoàn toàn giống nhau, trừ những công trình có nhu cầu thiết kế điển hình.

DIỄN GIẢI THỊ CẢM và DIỄN GIẢI TƯƠNG TÁC (The Visual Interpretation & the Interactive Interpretation)

Sáng tạo nghệ thuật đương đại đã cho thấy những tác phẩm ưu tú nhất của thời đại không phải là những “lời giải tối ưu”, “không thể tranh cãi” về nghệ thuật cho một hoàn cảnh thiết kế cụ thể mà dường như là ngược lại. Các sáng tạo nghệ thuật ngày nay tạo nên phương thức được xem là những gợi ý, gợi mở để cho công chúng – người thưởng lãm tự “đọc và hiểu” tác phẩm, họ được quyền tự tìm ra những ý nghĩa không hề được ấn định trước. Không bị chi phối bởi văn hóa đại diện, các cách hiểu về một tác phẩm nghệ thuật giữa họ có thể sẽ rất khác nhau. Khi đó, hoạt động “tương tác” sẽ đóng vai trò chủ yếu trong quan hệ giữa công chúng – người thưởng lãm và tác phẩm, còn nhà thiết kế thì dường như chẳng còn vai trò gì – họ đã tạm thời lùi vào đằng sau “sân khấu”. Lúc này, vị thế của các phong cách và xu hướng nghệ thuật hoàn toàn trở thành thứ yếu. Trọng tâm của một tác phẩm nghệ thuật đã được “dịch chuyển” ra xa khỏi những vướng bận về phong cách và xu hướng và thật sự sẽ chỉ còn là hàng loạt các “câu hỏi và tình huống” để công chúng – người thưởng lãm tự mình tìm tới một lối “giải thích” khả dĩ trước những “gợi ý” của nhà thiết kế thay vì đồng tình với những “diễn giải” đại diện của họ. Hàng loạt các tác phẩm kiệt xuất trong những thập niên gần đây của các nhà thiết kế tài – danh như: Bernard Tschumi, Daniel Libeskind, Tadao Ando, Toyo Ito, Peter Eisenman, Anish Kapoor… đã là minh chứng rõ nhất cho sự chuyển hướng rõ rệt của cách tiếp cận này. Công việc của các nhà sáng tạo chuyển từ diễn giải thị cảm sang diễn giải tương tác.

Wind Tower -Toyo Ito
Wind Tower -Toyo Ito

THỊ TRƯỜNG, THỊ HIẾU VÀ SÁNG TẠO

Xét cho cùng thì văn hóa là một sự lựa chọn. Việc lựa chọn, mô phỏng, sao chép mô hình của một nền văn hóa cụ thể nào đó cần được xem là công việc hết sức riêng tư của cả chủ đầu tư và người thiết kế. Nó thuộc về thị trường, thị hiếu. Một chủ nhân ưa thích phong cách cổ điển phương Tây hay phong cách Đông Dương thời kỳ thuộc Pháp… thì đó là một việc hoàn toàn riêng tư. Công việc của người thiết kế là thực hiện “đơn hàng” đó bằng tất cả “vốn liếng” chuyên môn của mình, nhưng cái vốn liếng ấy mà chỉ thuần túy những “motif” của phong cách ấy thôi thì chắc chắn là chưa đủ. Kinh tế thị trường cho phép mọi người được xây dựng những gì họ muốn nếu không trái với những qui định chung của nhà nước, không gây ảnh hưởng xấu đến mỹ quan đô thị.
Tuy nhiên, những thị hiếu đại loại như vậy chưa khi nào được đánh giá cao trên các diễn đàn chính thống với hai lý do: Đó chỉ là sự sao chép quá khứ (vintage: Cổ điển, đặc trưng của một thời kỳ trong quá khứ – Từ điển Anh-Việt) và nhìn chung không phải là những sáng tạo nghệ thuật. Ở đây cần có sự phân biệt rõ ràng giữa thị trường, thị hiếu và sáng tạo; cần phân biệt rõ ràng giữa một diễn đàn chính thống (các cơ quan truyền thông, phát ngôn của các Hội nghề nghiệp và nhà nước…) với các tạp chí thương mại, quảng cáo…

Chủ đề của Tạp chí Kiến trúc trong số báo này cũng cho thấy việc xem phong cách và xu hướng thiết kế như là mục tiêu phải hướng đến, kết quả phải đạt được đã không còn hợp thời nữa. Mục tiêu này đang cho thấy: Quyền lợi của người sử dụng, thụ hưởng kiến trúc và nội thất phải là ưu tiên hàng đầu trong mọi sáng tạo nghệ thuật. Dưới đây là một vài ví dụ từ hoạt động thực tiễn của thiết kế kiến trúc và nội thất ở Việt Nam cho thấy phong cách và xu hướng đã được hình thành hoàn toàn tự nhiên và độc lập với những gì đã có từ trước.

  • Đảm bảo sự tiện dụng: Là yêu cầu hiển nhiên của kiến trúc và nội thất, yêu cầu này hoàn toàn không nhằm tạo ra một thứ Chủ nghĩa Công năng Mới (Neo- Functionism) nào;
  • Tạo dựng môi trường xanh tươi, thoáng mát, tiết giảm việc tiêu hao năng lượng vốn là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong thiết kế kiến trúc và nội thất;
  • Tận dụng nguồn vật liệu, kỹ thuật và nhân công địa phương… để giảm nhẹ các chi phí xây dựng, tăng hiệu quả kinh tế…;
  • Có thể lấy nghệ thuật truyền thống (của tất cả các nền văn hóa) làm cảm hứng thiết kế, vì điều ấy tạo nên mối liên hệ tự nhiên với văn hóa và lịch sử trong các không gian kiến trúc và nội thất đương đại. Trên thực tế, việc viện dẫn, khai thác nghệ thuật truyền thống là vũ khí lợi hại nhất cho việc chống lại Toàn cầu hóa (Globolization) hiện nay. Đây mới chính là điều thiết thực cần thực thi.

Với các phương thức nêu trên, sẽ là những gợi ý để việc thiết kế kiến trúc và nội thất được tiến hành một cách hoàn toàn tự chủ. Người thiết kế đương đại không cần phải quan tâm quá mức đến sự xếp loại, đánh giá các sản phẩm của bản thân có đáp ứng tiêu chí của một phong cách và xu hướng thịnh hành nào hay không.

The Concrete House - Hồ Khuê Architects
The Concrete House – Hồ Khuê Architects
Stepping Park House - VTN Architects
Stepping Park House – VTN Architects

KẾT LUẬN

Với bốn phương châm thiết kế nêu trên đều đã phản ánh chân thực bản chất của kiến trúc và nội thất là phục vụ cuộc sống của con người theo hướng phát triển bền vững mà không cần viện dẫn đến bất kỳ một phong cách và xu hướng thiết kế nào. Khi đó, các phong cách và xu hướng thiết kế có sẵn không còn là mục đích tự thân của các thiết kế mới, mà chính những ý tưởng thiết thực, cảm hứng và bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật theo con đường cách tân sẽ tạo nên những phong cách và xu hướng thiết kế ngày một mới – lạ.

TS.KTS Lê Thanh Sơn – ĐH Kiến trúc TP HCM
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 06-2020)


TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. J.K Melvil, HIỆN TƯỢNG HỌC: “ĐẾN VỚI CHÍNH SỰ VẬT” – Nguồn: Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, NXB Giáo dục, 1997, tr. 74-92, Đinh Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch;
  2. Lê Thanh Sơn, NHỮNG PHƯƠNG THỨC CẢM THỤ KIẾN TRÚC, T/c Xây Dựng 03-2016, tr. 155;
  3. Lê Thanh Sơn, ECOLOGICAL ARCHITECTURE A FORGOTTEN OPPORTUNITY IN VIET NAM – Matec Web of Conferences: ESCI 2018, page(s): 13;
  4. Lê Thanh Sơn, KIẾN TRÚC VÀ CÁC HỆ QUI CHIẾU MỸ THUẬT, T/c Kiến trúc 05-2018, tr. 82;
  5. Lê Thanh Sơn, NGHỆ THUẬT SẮP ĐẶT – TRÌNH DIỄN VÀ KIẾN TRÚC, T/c Kiến trúc 09-2018;
  6. Lê Trần Xuân Trang, DIỄN GIẢI TRUYỀN THỐNG TRONG KIẾN TRÚC VN ĐƯƠNG ĐẠI, luận án Tiến sĩ, Trường ĐH Kiến trúc TP. HCM, 2019