Kiến trúc Quy hoạch miền Nam (1975-2025) và Tương lai – phần 1

Kiến trúc quy hoạch miền Nam (1975-2025) và tương lai

A. Bối cảnh phát triển đô thị miền Nam

  • Thời kỳ Pháp thuộc (trước 1945)
  • Thời kỳ Chiến tranh (1945-1975)
  • Thời kỳ Bao cấp (1975-1986)
  • Thời kỳ Đổi mới (1986-2025)

B. Nhận diện các thành tựu kiến trúc quy hoạch

  1. Hệ khung Tư duy CITY DESIGN
  2. Phát triển hệ sinh thái số hóa
  3. Hợp tác đa ngành trong hành nghề và đào tạo
  4. Một số xu hướng kiến trúc quy hoạch mới do nhu cầu cộng đồng
  5. Cân đối lợi ích chung hài hòa với lợi ích riêng
  6. Thiết kế công trình kiến trúc với tư duy quy hoạch
  7. Phát triển thân thiện với môi trường
  8. Bảo tồn bản sắc di sản và sáng tạo bản sắc mới
  9. Tăng trưởng trong tương quan hội nhập quốc tế
  10. Sáng tạo những “bản giao hưởng” Kiến trúc Quy hoạch
  11. Sáng tạo không gian đô thị cao tầng với liên kết Xanh

Bối cảnh phát triển đô thị miền Nam

TP.HCM hiện đại, năng động – Ảnh: Kỹ sư Nguyễn Tấn Tuấn

Trong quá trình lịch sử phát triển, nền kiến trúc Việt Nam có cơ hội giao thoa với nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, đặc biệt là từ Trung Quốc, Pháp, Nhật, Mỹ, Liên Xô, và nhiều nước Âu Á khác.

Nền văn hóa Trung Quốc tuy có nhiều ảnh hưởng đến đời sống và quá trình hình thành và phát triển đô thị và nông thôn, tuy nhiên, do vật liệu xây dựng chính là gạch gỗ và do triều đại sau có xu hướng phá bỏ thành tựu kiến trúc của triều đại trước đó, cho nên di sản kiến trúc còn lưu lại thời nhà Nguyễn vẫn chiếm đa số, so với các thời kỳ trước đó.

Nền văn hóa Pháp có ảnh hưởng khá sâu rộng đến kiến trúc quy hoạch các đô thị lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Đà Lạt, Nha Trang, … cho đến ngày nay, dù thời kỳ Pháp thuộc ngắn hơn nhiều so với các thời kỳ Bắc thuộc.

Nền văn hóa Nhật không có nhiều ảnh hưởng đến kiến trúc Việt, trừ tại một số khu vực nhỏ như TP Hội An, do thời kỳ Nhật chiếm đóng Việt Nam quá ngắn.

Nền văn hóa Mỹ và Liên Xô bắt đầu du nhập vào Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh, có nhiều tác động tích cực đến sự phát triển kiến trúc hiện đại tại Việt Nam vào nửa sau thế kỷ 20.

Sau khi Việt Nam tái bang giao với Mỹ và nhiều nước trên thế giới, nền văn hóa của tất cả các nước nói trên, cùng với văn hóa của nhiều quốc gia khác trên thế giới (Anh, Úc, Singapore, Canada, …) bắt đầu được đưa vào Việt Nam, thông qua các dự án đầu tư. Sự hội nhập quốc tế đi đôi với xu hướng quốc tế hóa kiến trúc quy hoạch, một mặt tạo điều kiện thuận lợi phát triển xây dựng đô thị tại Việt Nam, nhưng mặt khác lại làm cho kiến trúc các đô thị ngày càng giống nhau, trở thành thử thách lớn cho việc bảo vệ và phát huy giá trị bản sắc dân tộc, bản sắc địa phương.

Thời kỳ Pháp thuộc (trước 1945)

Thời kỳ Pháp thuộc, các KTS người Pháp có công đóng góp quy hoạch, xây dựng và đào tạo các KTS người Việt tiên phong, cùng tạo ra phong cách kiến trúc Đông Dương.

Người Pháp định hướng quy hoạch xây dựng toàn bộ đô thị (Hà Nội, Đà Lạt, Sài Gòn,….) hoặc chỉ một phần khu trung tâm đô thị (Huế, Nha Trang,…) với đặc trưng kiến trúc cổ điển và không gian xanh theo phong cách châu Âu.

Thời kỳ Chiến tranh (1945-1975)

Đây là giai đoạn nhiều tàn phá mất mát do chiến tranh, đô thị phát triển bị nhiều yếu tố tác động tiêu cực, nên phát triển thiếu cân đối, vừa làm vừa sửa chữa hoặc tái xây dựng những công trình bị phá hủy do chiến cuộc, người dân hoang mang, không sống yên ổn. Các khu ở của gia đình thương phế binh và dân di cư chiến tranh thường là những khu vực tự phát, phức tạp, ô nhiễm, … trở thành vấn nạn lớn trong các thành phố lớn nhỏ.

Cuối thời kỳ chiến tranh chống Pháp (1945 – 1954) cũng là lúc KTS người Pháp bắt đầu rút về nước, kiến trúc miền Nam dần dần được chuyển giao sang KTS người Việt.

Thời kỳ chiến tranh chống Mỹ (1954 – 1975), việc hiệp định Genève chia cắt đất nước thành hai miền tại vĩ tuyến 17 khiến cho trong giai đoạn này kiến trúc Việt Nam ở hai miền cũng bắt đầu phát triển theo hai hướng khác nhau.
Tuy chiến tranh lan rộng, nhưng đây cũng là thời kỳ phát triển mạnh kiến trúc hiện đại tại Việt Nam. Miền Bắc phát triển kiến trúc hiện đại dưới ảnh hưởng của Liên Xô và các nước XHCN. Miền Nam phát triển kiến trúc hiện đại dưới ảnh hưởng gia tăng của kỹ thuật Mỹ, trong khi phong cách thiết kế kiến trúc Pháp và kiến trúc Đông Dương giảm dần ảnh hưởng. Hai yếu tố này có tác động hỗ trợ giao thoa khá lớn đến phát triển kiến trúc Việt Nam giai đoạn 1975-2025 sau khi hòa bình lập lại, hai miền cùng chung tay xây dựng lại đất nước.

Tại miền Nam, các KTS người Việt được đào tạo tại Pháp hoặc tại trường của Pháp thành lập tại Đông Dương chiếm đa số, góp phần quan trọng trong việc hình thành thế hệ KTS người Việt với phong cách kiến trúc hiện đại trong thế kỷ 20 ngang tầm với thế giới vào thời đó.

Tuy lực lượng KTS hành nghề không nhiều, đến năm 1975 chỉ có 150 người, bao gồm vài KTS nước ngoài, chủ yếu hành nghề tại Sài Gòn nhưng hoạt động khắp miền Nam. Với sự trợ giúp của lực lượng họa viên đông đảo, các KTS người Việt đảm đương được vai trò thiết kế chính trong việc thực hiện đa số công trình trọng điểm quốc gia và các công trình lớn nhỏ trên toàn miền Nam. KTS người Mỹ chủ yếu thực hiện các dự án công trình được Mỹ viện trợ, nhưng thiếu kinh nghiệm địa phương, nên đôi khi đưa ra những phương án chưa phù hợp với khí hậu và con người, thường phải cộng tác với KTS Việt Nam giúp điều chỉnh lại.

Không gian trung tâm lịch sử Dinh Độc Lập với hậu cảnh những nhà cao tầng xây dựng sau 1975

Thời kỳ Bao cấp (1975-1986)

Trong thời kỳ bao cấp, hầu hết sinh hoạt kinh tế đều diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, là mô hình đã được áp dụng tại miền Bắc từ 1945, tuy có những ưu điểm đáp ứng nhu cầu thời chiến, nhưng lại chưa phù hợp đáp ứng nhu cầu phát triển thời bình.

Đây là giai đoạn đầu sau khi đất nước thống nhất, phải củng cố và xây dựng lại trong hòan cảnh rất khó khăn, do phải khắc phục hậu quả chiến tranh dưới ảnh hưởng tiêu cực của cấm vận và của xung đột biên giới phía Tây Nam và phía Bắc. Do vậy, thời kỳ này không có nhiều công trình xây dựng mới có quy mô lớn, mà chủ yếu chỉ khôi phục, cải tạo các công trình bị xuống cấp hư hỏng, hoặc cơi nới mở rộng.

Miền Nam trở thành nơi giao lưu chia sẻ kinh nghiệm giữa các KTS được đào tạo theo hệ thống giáo dục của Pháp và một số ít từ Mỹ, với các KTS từ miền Bắc vào, tốt nghiệp từ trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương hoặc các trường của khối XHCN như Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba, và Đông Âu. Các KTS có cơ hội làm việc cùng nhau tham gia các dự án trên toàn quốc, chủ yếu thiết kế theo phong cách hiện đại, kết cấu bê tông cốt thép, và sử dụng vật liệu địa phương. Nguồn vật liệu nhập khẩu và cơ hội giao lưu hợp tác quốc tế rất hạn chế do còn bị Mỹ cấm vận.

Đây cũng là giai đoạn xây dựng một số ít công trình trọng điểm quốc gia, nhưng đa số đều giao cho KTS nước ngoài trong khối XHCN thiết kế, như Lăng Bác và Bảo tàng Hồ Chí Minh (KTS Liên Xô G. Isakovich, 1975-1990), Khách sạn Thắng Lợi (KTS Cuba Nicolás Quintana, 1975), Bảo tồn đô thị cổ Hội An (KTS Ba Lan Kazik Kwiatkowski, 1980-1997), …

Công viên tượng KTS Ba Lan Kazik Kwiatkowski, người có công bảo tồn phố cổ Hội An (Ảnh: Q.T)

Thời kỳ Đổi mới (1986-2025)

Khởi đầu từ việc chính quyền trung ương khởi xướng chính sách đổi mới vào năm 1986, từ việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1995 và chính sách mở cửa, đô thị Việt Nam ngày càng phát triển mạnh theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Đây là thời kỳ nền kiến trúc Việt Nam tăng trưởng nhanh về nhiều mặt, cả về lượng lẫn về chất, ngày càng tiệm cận với các nền kiến trúc tiên tiến khác trên thế giới.

Tuy nhiên, do trước đó KTS Việt Nam bị bất lợi trong việc cập nhật kiến thức ngành nghề trong suốt hàng chục năm bị cấm vận, cho nên dù một số lượng lớn KTS trẻ sau này được đi tu nghiệp ở nhiều nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của thời kỳ này, KTS từ nhiều nước (Mỹ, Canada, Pháp, Anh, Đức, Ý, HongKong, Singapore, Nhật, Úc,…) chiếm vai trò áp đảo trong việc tư vấn thiết kế những công trình trọng điểm quốc gia tại Hà Nội và tại các tỉnh thành.

Nhận diện các thành tựu kiến trúc quy hoạch

Hệ khung tư duy CITY DESIGN

Công việc nhận diện các thành tựu kiến trúc quy hoạch đô thị miền Nam trong giai đoạn 1975-2025 rất khó khăn, vì đó không phải là việc liệt kê chi tiết những công trình và những tác giả đã thực hiện, mà cần phải định vị được các tác phẩm tiêu biểu, không nhất thiết là tác phẩm đầu tiên được thực hiện hoặc quy mô lớn, nhưng có thể đại diện cho một xu hướng thiết kế hoặc phát triển mới, cho một bước ngoặc mang tính chiến lược, không chỉ có ý nghĩa lớn trong việc thúc đẩy nâng tầm nhận thức thực hiện các công trình quy hoạch kiến trúc, mà còn có thể đóng góp vào kho tàng kiến thức của nhân loại. Trong đó, mối quan tâm tương đồng lớn nhất của Việt Nam và các nước trên thế giới hiện nay, là việc ứng phó thế nào trước các nguy cơ, thử thách, song song với việc nắm bắt các cơ hội phát triển bền vững!

Trong khuôn khổ giới hạn của một bài viết, chúng ta có thể chọn thảo luận về một số dự án và xu hướng chọn lọc, với chủ đề dựa trên nền hệ khung tư duy văn hóa bảo tồn, chỉnh trang và phát triển đô thị bền vững (gọi tắt là Văn hóa đô thị bền vững), đề xuất trong cuốn sách “Nhận diện Đô thị Việt Nam đương đại” (Ngô Viết Nam Sơn, 2024), dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và nghiên cứu kiến trúc quy hoạch tại Việt Nam và tại nhiều nước trên thế giới.

Theo đó, việc xem xét đánh giá thuộc tính Văn hóa Đô thị bền vững của dự án kiến trúc quy hoạch có thể dựa trên nền tảng 10 yếu tố nguyên lý quan trọng, mà chữ cái đầu tiên tạo thành cụm từ CITY DESIGN (Thiết kế Đô thị):

  • Nguyên lý C – Communication – Văn hóa giao tiếp và chia sẻ thông tin đa chiều;
  • Nguyên lý I – Interdisciplinary – Văn hóa hợp tác đa ngành;
  • Nguyên lý T – Teamwork – Văn hóa liên kết cộng đồng;
  • Nguyên lý Y – Yin Yang – Văn hóa cân bằng lợi ích hài hòa âm dương;
  • Nguyên lý D – Direction – Văn hóa quản lý có định hướng chiến lược và kế hoạch khả thi;
  • Nguyên lý E – Environment – Văn hóa môi trường gắn với trách nhiệm xã hội;
  • Nguyên lý S – Sense of Place – Văn hóa bảo tồn và phát triển bản sắc
  • Nguyên lý I – Intelligence & Integration & International – Văn hóa khoa học, công nghệ thông minh, và hội nhập quốc tế;
  • Nguyên lý G – Growth – Văn hóa tầm nhìn trăm năm;
  • Nguyên lý N – Network – Văn hóa liên kết vùng.

Phát triển hệ sinh thái số hóa

(Nguyên lý C – Communication – Văn hóa giao tiếp và chia sẻ thông tin đa chiều)

Việc phát triển hệ sinh thái số hóa trong kiến trúc quy hoạch đã đạt một số thành tựu cơ bản trong giai đoạn 1975-2025, nhưng còn rất nhiều thử thách phía trước!

Trước năm 1975, công tác hành nghề và đào tạo kiến trúc quy hoạch tại miền Nam mang nặng ảnh hưởng phương pháp đào tạo theo trường phái Mỹ thuật Pháp, trong đó, kỹ năng thể hiện ý tưởng qua bản vẽ tay đóng vai trò quan trọng hàng đầu.

Trong thế kỷ 21- thế kỷ của công nghệ thông tin và toàn cầu hóa, việc ứng dụng công nghệ số và công nghệ thông minh AI vào kiến trúc quy hoạch đóng vai trò chiến lược quan trọng tầm quốc gia.

Trong 50 năm qua, công tác hành nghề và đào tạo kiến trúc quy hoạch đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc ứng dụng công nghệ số, nhưng dù vậy, vẫn còn nhiều thử thách phải vượt qua để bắt kịp cách làm tại các nước tiên tiến.

  • Công nghệ vẽ 2D (Acad) đã được phổ biến trên toàn quốc từ đầu thế kỷ 21, ngày nay có thể hòan toàn thay thế các bản vẽ tay;
  • Công nghệ vẽ 3D (3DMax, Sketchup, Lumion, AI, …) ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công tác thiết kế;
  • Công nghệ thông tin địa lý (MapInfo, GIS,…) bắt đầu được phát triển và ứng dụng trong quản lý quy hoạch và môi trường, tích hợp với các dữ liệu số của chương trình khác (chính phủ điện tử, đô thị thông minh, thông tin điện tử về cư dân và địa ốc, thông tin giao thông, …) nhưng nói chung hệ thống cung cấp dữ liệu và hiệu quả hợp tác đa ngành vẫn còn khá hạn chế về số lượng lẫn chất lượng;
  • Công nghệ thông tin xây dựng BIM – Building Information Modeling mới chỉ bắt đầu được quan tâm thực hiện ở một số dự án, nhưng việc phát triển ứng dụng còn khá chậm.
    Tầm nhìn tương lai
  • Phát triển thư viện số công cộng quy mô lớn (có thể lên đến hàng chục triệu hạng mục) để có thể cung cấp đầy đủ thông tin đa ngành phục vụ cho việc nghiên cứu kiến trúc quy hoạch đô thị và vùng đô thị gắn kết với thông tin đa ngành, trong các lĩnh vực hành nghề và giáo dục đào tạo, xa hơn là cung cấp rộng rãi để phổ cập kiến thức cho người dân.
  • Xây dựng một hệ sinh thái hiệu quả cho việc ứng dụng công nghệ số, đặc biệt là công nghệ GIS và BIM, vào kiến trúc quy hoạch (cộng đồng KTS sử dụng, thư viện số các sản phẩm xây dựng, hỗ trợ ngân sách và tăng thiết kế phí để mua thiết bị và phần mềm, cơ chế để các đơn vị đa ngành trong nước và nước ngoài cùng đóng góp vào kho tàng dữ liệu dùng chung…)

Hợp tác đa ngành trong hành nghề và đào tạo

(Nguyên lý I – Interdisciplinary – Văn hóa hợp tác đa ngành)

Cho đến vài năm gần đây, cơ chế vận hành của các sở ngành và của giáo dục đại học tại nhiều địa phương vẫn còn mang nặng tính đơn ngành. Nhưng nhiều sự kiện mới ở Việt Nam gần đây đã thúc đẩy sự cần thiết tại Việt Nam phải tái cơ cấu theo hướng hợp tác đa ngành:

  • Nhiều mô hình phát triển đột phá mới chưa có tiền lệ tại Việt Nam nhưng có thể đem lại nguồn thu ngân sách hàng tỷ USD, như đô thị sân bay (Sân bay là hạt nhân của các khu đô thị đa chức năng bao quanh) và đô thị theo mô hình TOD (Transit Oriented Development) đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ ngay từ đầu dự án giữa ngành Quy hoạch – Kiến trúc – Xây dựng với ngành Giao thông – Kế hoạch Đầu tư.
  • Chủ trương sáp nhập Sở Giao thông Vận tải với Sở Xây dựng ở cấp Bộ và ở cấp Sở trong toàn bộ các tỉnh thành trên toàn quốc từ 2025 là một tiến bộ thuận lợi cho việc hợp tác đa ngành giữa hai lĩnh vực.
  • Nền giáo dục đại học muốn đạt đẳng cấp quốc tế thì trước hết phải được tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học từ góc nhìn đa ngành.

Phát triển Trung tâm hành chính cấp tỉnh thành, hướng đến việc hình thành Khu Đô thị hành chính

Trung tâm hành chính (TTHC) là một thể loại công trình hành chánh mới tại Việt Nam, tổ chức lại theo mô hình gom các cơ quan lãnh đạo và các sở ngành của địa phương, vào một đầu mối dịch vụ công, để thuận tiện cho việc cộng tác với nhau, và để phục vụ người dân hiệu quả và nhanh chóng hơn.

Ban đầu, xu hướng này chỉ được thực hiện ở cấp thấp với quy mô nhỏ, trong đó tiêu biểu có TTHC Quận 10 (KTS Nguyễn Văn Tất, 1999) khởi xướng giải pháp kiến trúc thân thiện và gần gũi hơn với người dân, tương phản với mô hình uy nghi xa cách với dân của các kiến trúc hành chính thời Pháp.

Một số công trình hành chính cấp quốc gia được giao cho KTS nước ngoài như: Trung tâm Hội nghị Quốc gia (gmp, 2006), Nhà Quốc hội (gmp, 2014), …

Về sau, để đáp ứng với nhu cầu cải tổ hành chính của nhiều tỉnh thành, các TTHC cấp tỉnh bắt đầu được xây dựng trên khắp cả nước, với nhiều bố cục tổng thể đa dạng khác nhau, trong đó có ba xu hướng chính:

  1. Tổ chức các cơ quan thành chuỗi liên kết hướng mặt tiền vào không gian nội cảnh quan và bãi xe bao quanh: TTHC tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (Tange Associates & NQH Architects, 2012);
  2. Chồng các cơ quan lên nhau trong một tòa nhà cao tầng: TTHC tỉnh Bình Dương (CPG, 2014), TTHC TP Đà Nẵng (DeStefano Partners, 2014);
  3. Đưa bãi xe vào trong và đặt dưới tán cây, tổ chức các cơ quan thành chuỗi liên kết nội bộ với mặt tiền hướng ra ngoài, có kết nối đi bộ thân thiện với vỉa hè công viên, khu dân cư, và dịch vụ thương mại của các ô phố xung quanh, tạo thành không gian đô thị hành chính: TTHC tỉnh Thừa Thiên Huế (KTS Ngô Viết Nam Sơn, 2022).
Trung tâm Hành chính Chính trị tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu

Phát triển Campus Đại học đa ngành và Đô thị Đại học

Từ dự án Làng Đại học đầu tiên tại Thủ Đức và Đại học Nông nghiệp (KTS Ngô Viết Thụ, 1960), đến nay, mô hình Campus đại học đa ngành và Đô thị đại học đã được kiện toàn xây dựng, trở nên phổ biến tại nhiều tỉnh thành:

  • Đại học Quốc gia TP HCM được thành lập, với việc xây dựng Nhà Điều hành trung tâm (KTS Vũ Đại Hải, 2002) và nhiều trường đại học thành viên, khu ký túc xá sinh viên và các tiện ích, trong không gian quy hoạch rộng 643,7ha. Dự kiến tiếp tục quy hoạch kết hợp với khu công nghệ cao Sài Gòn và các khu đô thị xung quanh để trở thành một phức hợp Đô thị đại học.
  • Mô hình Campus đại học và Đô thị đại học đã được nhân rộng ra khắp cả nước như: ĐH Quốc gia Hà Nội & Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Trường ĐH RMIT (Pentago, 2011), Trường ĐH Việt Đức (Machado Silvetti, 2013), Trường ĐH VinUni (Perkins & Will, 2020), …

Tầm nhìn tương lai

Nên xem xét sáp nhập hoặc thành lập thêm Trường ĐH Kiến trúc nằm trong hệ thống Đại học Quốc gia (tại Hà Nội, TP HCM, Huế, Đà Nẵng) để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối đa ngành và tăng vị thế đẳng cấp quốc tế của trường. Trong lãnh vực đào tạo trên thế giới, một trường đại học kiến trúc trực thuộc một ĐH Tổng hợp đa ngành thường có vị thế cao hơn trường đại học kiến trúc độc lập, nhờ năng lực nghiên cứu và thực hành sâu rộng hơn cùng với hợp tác đa ngành. Ngoài ra, điều này cũng chuẩn bị tốt hơn cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cần thiết hiện nay, với nhiều kinh nghiệm hợp tác đa ngành với các ngành khác.

Một số xu hướng kiến trúc quy hoạch mới do nhu cầu cộng đồng

(Nguyên lý T – Teamwork – Văn hóa liên kết cộng đồng)

Sự thay đổi của kinh tế xã hội tất yếu sẽ dẫn đến các cơ hội sáng tạo mới về kiến trúc quy hoạch, trong khi tìm giải pháp đáp ứng cho các nhu cầu mới của cộng đồng. Ví dụ, cùng với xu hướng đổi mới theo định hướng kinh tế thị trường, nhiều nhóm cư dân có tiềm lực mạnh về tài chính bắt đầu tham gia đóng góp những công trình tư nhân có vai trò tiện ích hạ tầng xã hội, trong bối cảnh ngân sách công còn hạn chế trong việc phát triển hạ tầng.

Công trình tích hợp với “công viên xanh” trên cao

Bức xúc trước tình trạng thiếu không gian xanh và bê tông hóa đô thị, KTS Võ Trọng Nghĩa đã sáng tạo nên những công trình có ý tưởng độc đáo với rất nhiều cây xanh, không chỉ phục vụ cho chủ nhân, mà còn để bổ sung không gian xanh giúp cải thiện môi trường đô thị như Ngôi nhà xanh Stacking Green (2011), Ngôi nhà cho cây House for Trees (2014), Văn phòng Urban Farming Office (2022), …

Nhà ở Tân Bình, TP. HCM – Võ Trọng Nghĩa Architects

Công trình văn hóa phi lợi nhuận

Nhiều công trình văn hóa phi lợi nhuận do tư nhân đầu tư xây dựng hoặc tài trợ, được mở cửa cho công chúng nhằm vinh danh những thành tựu của người Việt và tạo nên những không gian sinh hoạt văn hóa nghệ thuật và cộng đồng, giúp nâng tầm nhận thức của người dân như:

  • Các công trình bảo tàng: Không gian Lưu niệm Lê Bá Đảng tại Huế (KTS Hồ Viết Vinh, 2019) trưng bày các tác phẩm hội họa và điêu khắc của họa sĩ Lê Bá Đãng; Bảo tàng Nghệ thuật Quang San (KTS Ngô Viết Nam Sơn, 2023) với bố cục tích hợp dành 80% quy mô cho việc trưng bày hơn 1300 tác phẩm hội họa nổi tiếng của Việt Nam và tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật, và 20% quy mô làm nơi ở của gia đình chủ bộ sưu tập.
  • Các không gian kiến trúc cảnh quan để tổ chức sự kiện thường xuyên như Đường hoa Nguyễn Huệ (2004), Đường sách Nguyễn Văn Bình (2016),…

Tầm nhìn tương lai

Chúng ta cần xây dựng chính sách hỗ trợ và khuyến khích việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và cá nhân đối với cộng đồng như là một phần quan trọng của lối sống thị dân:

  1. Nhà đầu tư các dự án đô thị dành đất cho việc phát triển không chỉ nhà ở xã hội, mà cả những công trình phục vụ lợi ích cộng đồng;
  2. Các dự án tư nhân có bao gồm chức năng tiện ích phục vụ cộng đồng như trên, được hưởng các ưu đãi về thủ tục và giảm thuế.

Cân đối lợi ích chung hài hòa với lợi ích riêng

(Nguyên lý Y – Yin Yang – Văn hóa cân bằng lợi ích hài hòa âm dương)

Khi xã hội phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt kể từ khi đất nước phát triển theo kinh tế thị trường, thì bài toán lợi ích chung và riêng trở thành vấn đề xã hội trong giải pháp kiến trúc quy hoạch, trong đó bổn phận của lãnh đạo chính quyền và của KTS là bảo vệ lợi ích chung của số đông, trong khi vẫn đáp ứng một cách hài hòa với lợi ích riêng của thiểu số. Nói cụ thể, là phải cân đối giải pháp kiến trúc quy hoạch phù hợp lợi ích chung của cộng đồng, hài hòa với lợi ích riêng của nhà đầu tư!

Phát triển du lịch biển cao cấp hài hòa với lợi ích cộng đồng dân cư ven biển

Furama Resort Đà Nẵng (Deton Coker & Marsha, 1997), là khu nghỉ dưỡng biển 5 sao đầu tiên tại Việt Nam, mở ra xu hướng phát triển mới dọc theo tuyến đường ven biển Đà Nẵng chạy dài xuống Hội An. Từ đó, mô hình phát triển khu đô thị du lịch biển đảo dưới nhiều hình thức đa dạng rất thành công tại nhiều tỉnh thành ven biển trên toàn quốc, như The Nam Hai tại Hội An (KTS Reda Amalou, 2006), InterContinental Sun Peninsula Resort tại Đà Nẵng (KTS Bill Bensley, 2012), Amanoi Resort tại Ninh Thuận (KTS Jean-Michel Gathy, 2013), Wyndham Resort Phú Quốc (KTS Nguyễn Hòang Mạnh, 2016)…

Tuy khu nghỉ dưỡng resort là một mô hình đầu tư du lịch rất thành công, góp phần quan trọng vào việc đóng góp cho ngân sách địa phương và sự phát triển của các tập đoàn du lịch như VinGroup, SunGroup, FLC, … nhưng việc quy hoạch các resort nối đuôi nhau chạy suốt nhiều cây số mặt tiền biển, đã dành mất sinh kế của người dân ven biển và chặn lối ra biển của người dân, làm cho khu vực phía Tây của tuyến đường ven biển mất đi sự hấp dẫn về đầu tư. Đây cũng là tình trạng chung xảy ra tại nhiều đô thị biển tại Phú Quốc, Nha Trang, Cam Ranh, …

Do đó, từ 2015, dưới áp lực của cộng đồng, chính quyền địa phương Đà Nẵng đã điều chỉnh lại chính sách quy hoạch các bãi biển công cộng và các lối ra biển cho người dân. Các địa phương khác cũng lần lượt áp dụng chính sách tương tự.

Toàn cảnh đường hoa Nguyễn Huệ

Tầm nhìn tương lai

Tình trạng chiếm hữu ven biển làm của riêng, cũng như tình trạng phát triển theo tư duy lợi ích riêng mặc cho việc xâm phạm lợi ích cộng đồng, hoặc xu hướng phát triển các cụm dự án condotel rồi tìm cách chuyển thành dự án nhà ở để tránh trách nhiệm phải đầu tư hạ tầng xã hội của nhà đầu tư, xảy ra khá phổ biến tại nhiều tỉnh thành, đặc biệt là trong các nhóm dự án khu đô thị du lịch và khu dân cư cao cấp, cho thấy vai trò trách nhiệm của chính quyền địa phương rất quan trọng trong việc điều phối và cân đối giải pháp kiến trúc quy hoạch phù hợp lợi ích chung của cộng đồng, đồng thời hài hòa với lợi ích riêng của nhà đầu tư.

Thiết kế công trình kiến trúc với tư duy quy hoạch

(Nguyên lý D – Direction – Văn hóa quản lý có định hướng chiến lược và kế hoạch khả thi)

Nhiều đồ án thiết kế kiến trúc dù có giá trị, nhưng nếu không được quy hoạch tốt để đặt vị trí đúng chỗ, thì lại có thể trở thành vật thể không nên tồn tại, ví dụ như các đề xuất cao tầng tại Dinh Tỉnh trưởng Đà Lạt hoặc các bức tường cao ốc ven sông. Do vậy, nếu KTS công trình không có được tư duy quy hoạch bền vững, thì vẫn nên hỏi ý kiến KTS quy hoạch!

Lực lượng KTS quy hoạch tại miền Nam tăng nhanh cùng với đà bùng nổ phát triển đô thị, từ việc chỉ có một Tổng Nha kiến thiết, các Ty kiến thiết tại các tỉnh thành, và chỉ vài văn phòng KTS có chuyên môn thiết kế đô thị vào năm 1975, đến nay đã dần tăng lên gấp nhiều lần kể từ thời kỳ đổi mới, khi KTS bắt đầu được phép mở công ty tư nhân để thực hiện thiết kế kiến trúc quy hoạch xây dựng. Ngành đào tạo cũng trở nên chuyên sâu hơn, từ việc tốt nghiệp Bằng KTS có thể hành nghề trong cả hai lãnh vực Kiến trúc và Quy hoạch, chuyển thành hệ thống bằng cấp chuyên ngành KTS Công trình, KTS Quy hoạch, KTS Nội thất…

Kiến trúc Quy hoạch Khu Đô thị mới theo tư duy kinh tế thị trường

Dự án quy hoạch Khu Đô thị Nam Sài Gòn (KTS John Kriken, Ngô Viết Nam Sơn, Ngô Quan Hiền và nhóm thiết kế SOM, 1994) là dự án quy hoạch đầu tiên theo tư duy kinh tế thị trường từ sau 1975, và là một thành tựu quan trọng và tiêu biểu của thời kỳ đầu đổi mới:

  • Là dự án quy hoạch hợp tác công tư đầu tiên rất thành công, từ thiết kế quy hoạch kiến trúc, cho đến quản lý phát triển dự án (Cty LD Phú Mỹ Hưng), và việc đổi mới cơ chế quản lý và quy trình thực hiện (UBND TP HCM), tạo ra tiền đề cho việc hòan thiện các quy trình và nền tảng pháp lý cần thiết cho việc ứng dụng nhân rộng tại nhiều dự án khu đô thị mới tại các tỉnh thành trên khắp cả nước như: Khu Đô thị An Vân Dương Huế (VIUP, 2005), Khu đô thị Ecopark (Vihajico, 2009), …;
  • Là dự án đầu tiên tổ chức thi tuyển quốc tế để chọn phương án quy hoạch đô thị, với cách tổ chức theo chuẩn quốc tế tiếp tục được áp dụng chọn nhà thiết kế cho những dự án tầm cỡ về sau như quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm (Sasaki, 2003), kiến trúc Nhà Quốc hội (GMP, 2003), quy hoạch khu trung tâm hiện hữu mở rộng TP HCM (Nikken Sekkei, 2007), …;
  • Là dự án quy hoạch với tư duy kiểu mẫu theo tiêu chí phát triển bền vững, đảm bảo an cư lạc nghiệp cho người dân với đầy đủ hạ tầng kỹ thuật hiện đại và tiện ích hạ tầng xã hội;
  • Là dự án gắn kết với nhiều dự án tiêu biểu như (1) Khu Chế xuất Tân Thuận (1991), là khu chế xuất đầu tiên của Việt Nam, diện tích 300 ha, nhằm tạo nguồn công ăn việc làm tại chỗ cho cư dân (2) Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Sài Gòn SECC (Nikken Sekkei, 2008) là một trong những trung tâm triển lãm hiện đại đầu tiên và lớn nhất miền Nam, mở ra các cơ hội giao lưu hợp tác mới giữa TP HCM với quốc gia và quốc tế.

Tầm nhìn tương lai

Một số kinh nghiệm thành công về quy hoạch của Khu Đô thị Nam Sài Gòn cần tiếp tục được quan tâm và nhân rộng ứng dụng cho các dự án quy hoạch khu đô thị trên cả nước:

  1. Đề xuất phát triển đô thị gắn kết với giao thông công cộng theo mô hình TOD từng được đề xuất đầu tiên trong quy hoạch Nam Sài Gòn, với không gian xanh giữa trục đường Nguyễn Văn Linh có lộ giới 100m, dự trù cho việc xây dựng metro hoặc monorail nối vào nội thành TP HCM, với hai bên là khu đô thị thân thiện với người đi bộ.
  2. Để việc tổ chức cuộc thi tuyển chọn phương án quy hoạch hoặc kiến trúc được thành công, cần đầu tư xứng đáng cho việc thuê chuyên gia soạn đề bài và chọn hội đồng giám khảo;
  3. Một bản quy hoạch tốt chỉ mới là bước đầu, cần phải đi kèm với một kế hoạch thực hiện quy hoạch cụ thể theo tư duy đa ngành và tư duy kinh tế thị trường;
  4. Không phải ngẫu nhiên mà kẹt xe, ngập lụt, … thường xảy ra ngay chính các khu nhà cao tầng mới xây dựng. Cần xem xét kỹ các tác động môi trường có thể xảy ra trong quá trình phê duyệt xây dựng các dự án, và cần đảm bảo nguyên tắc hạ tầng phải luôn được thực hiện xong, trước khi phát triển dự án xây dựng công trình!
Quy hoạch Khu Đô thị Nam Sài Gòn

(Còn tiếp – Kỳ sau: Nhìn về tương lai – 2050)

TSKH.KTS Ngô Viết Nam Sơn
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 04-2025)