Cố đô Huế 20 năm bảo tồn và phát huy di sản thế giới

Cách đây đúng 20 năm, ngày 11/12/1993, Quần thể di tích cố đô Huế chính thức được ghi nhận trong Danh mục Di sản Thế giới của UNESCO. Đây là di sản thứ 410 trong Danh mục nhưng lại là di sản thế giới đầu tiên của Việt Nam. Mười năm sau, ngày 7/11/2003, Nhã nhạc – âm nhạc cung đình Việt Nam được UNESCO ghi tên vào Danh mục các Kiệt tác văn hóa phi vật thể và Truyền khẩu của nhân loại, đây cũng là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của nước ta được công nhận. Như vậy, cố đô Huế đã có hai di sản thế giới, và đều là các di sản đầu tiên của Việt Nam được vinh danh.
Năm 1993, khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận với 17 cụm di tích khác nhau, một vấn đề rất lớn cũng được đặt ra: Phải có một chiến lược mang tầm quốc gia để bảo tồn các di sản vô giá đang ở trong tình trạng lâm nguy do sự tàn phá của chiến tranh, thiên tai và cả do ý thức của con người. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng Nhân dân, Uỷ Ban Nhân dân tỉnh cùng sự phối hợp của các ban ngành liên quan, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (dưới đây gọi tắt là Trung tâm) đã xây dựng và bảo vệ thành công Đề án Quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế, 1996-2010, được Thủ tướng chính phủ ra Quyết định số 105TTg ngày 12/2/1996 phê duyệt. Mục tiêu cơ bản và dài hạn của Dự án thể hiện trên cả hai phương diện: 1-Bảo tồn di sản văn hoá Cố đô Huế; 2- Phát huy mọi giá trị của Cố đô Huế, bao gồm giá trị di sản văn hoá vật chất, giá trị di sản văn hoá tinh thần, giá trị di sản văn hoá môi trường cảnh quan đô thị và thiên nhiên.

Có thể nói, Quyết định 105TTg là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để cố đô Huế triển khai thực hiện chiến lược bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong suốt 15 năm qua và cũng là cơ sở để Chính phủ ban hành Quyết định 818TTg phê duyệt dự án điều chỉnh Quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế, 2010-2020.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Di sản văn hoá Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp và đang dần dần từng bước được hồi sinh, diện mạo ban đầu của một Cố đô lịch sử dần dần được hồi phục. Theo đánh giá của UNESCO, công cuộc bảo tồn di tích Huế hiện đang chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển bền vững. Đặc biệt, việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa đã luôn gắn chặt với quá trình khai thác, phát huy và tạo điều kiện cho việc phát triển kinh xã hội của Tỉnh và khu vực miền Trung, trọng tâm là kinh tế du lịch, dịch vụ.
Những kết quả quan trọng ấy được thể hiện trên các mặt: Bảo tồn, trùng tu di tích; bảo tồn văn hóa phi vật thể; bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các khu di sản; hợp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học bảo tồn và đào tạo nguồn nhân lực; phát huy giá trị di sản…

Về công tác bảo tồn, trùng tu di tích:
Đây là một trong những hoạt động cơ bản nhất của công tác bảo tồn di sản Huế trong 15 năm qua, cũng là lĩnh vực được đầu tư lớn nhất về kinh phí và chất xám1. Những thành tựu chính trên lĩnh vực này là:
+ Hầu hết các di tích đều được bảo quản cấp thiết, bằng các biện pháp chống dột, chống sập, chống mối mọt, chống cây cỏ xâm thực, gia cố và thay thế các bộ phận bị lão hóa . . . nhờ vậy mà trong điều kiện thiên tai khắc nghiệt xảy ra liên tiếp, các di tích vẫn được bảo tồn và kéo dài tuổi thọ.
+ Một số công trình tiêu biểu đã được trùng tu gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, Hiển Lâm Các, cụm di tích Thế Miếu, cung Diên Thọ, Duyệt Thị Đường, cung Trường Sanh, hệ thống Trường lang (Tử Cấm Thành), lầu Tứ Phương Vô Sự, điện Long An (Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế), cung An Định, tổng thể đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc (khu vực đàn chính), tổng thể lăng Gia Long,  Minh Lâu, Điện Sùng Ân, Hữu Tùng Tự, Bi đình, Hiển Đức Môn (lăng Minh Mạng), Điện Hòa Khiêm, Minh Khiêm Đường, Ôn Khiêm Điện, Bửu thành và Bửu đỉnh Khiêm lăng (lăng Tự Đức), Thiên Định Cung, Bi Đình (lăng Khải định), Chùa Thiên Mụ, Cung An Định, 10 cổng Kinh Thành … Hiện nay, lăng Gia Long, lăng Đồng Khánh, lăng Thiệu Trị và lăng Tự Đức cũng đang được triển khai trùng tu nhiều hạng mục sau khi các dự án trùng tu được phê duyệt.
+ Cơ sở hạ tầng các khu di tích như: Hệ thống đường, điện chiếu sáng khu vực: Đại Nội, Quảng trường Ngọ Môn – Kỳ Đài, điện đường đến các lăng Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định… đã được đầu tư, nâng cấp. Hệ thống sân vườn sân vườn các di tích Hưng Miếu, Thế Miếu, cung Diên Thọ, Cung An Định…  được tu bổ hoàn nguyên.
Điều quan trọng là, các di tích đã được tu bổ đều đảm bảo các nguyên tắc khoa học về bảo tồn của quốc gia và thỏa mãn các điều luật của Hiến chương, Công ước quốc tế mà Chính phủ ta đã thừa nhận, được các nhà khoa học trong nước và quốc tế đánh giá cao.

Về công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể
Các di sản văn hóa phi vật thể của Huế hết sức phong phú và đa dạng. Tại Dự án Quy hoạch, Bảo tồn và Phát huy Giá trị Di tích Cố đô Huế, 1996-2010, việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trên chủ yếu được xác định trong phạm vi văn hóa cung đình thời Nguyễn, gồm: Thơ văn Hán Nôm trên di tích, văn bia, thơ Ngự chế được trang trí ở các cung điện, các hoa văn họa tiết trang trí mỹ thuật gắn liền với di tích kiến trúc, lễ nhạc Cung đình, múa hát Cung đình, lễ hội Cung đình, tuồng Ngự, ca Huế …  .
Tính từ năm 1996 đến nay, trên lĩnh vực này, Trung tâm đã tổ chức hàng chục công trình nghiên cứu khoa học, tổ chức biên soạn và xuất bản, tổ chức đào tạo nhân lực…
Chính nhờ những nỗ lực trên mà tháng 11/2003, UNESCO đã chính thức công nhận Nhã nhạc Cung đình Huế là Kiệt tác Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại (Nay là Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện nhân loại). Đây là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tầm vóc và sự phong phú, toàn diện của di sản văn hóa Huế trên cả hai lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể.

Về công tác bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các khu di sản
Nằm trong lòng của “một kiệt tác về thơ kiến trúc đô thị”, phần lớn các di tích của Huế đều là những kiến trúc nghệ thuật được bố trí hài hòa với thiên nhiên trong những không gian rất rộng lớn. Cũng chính vì thế mà việc bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các khu di tích gặp không ít khó khăn. Thêm vào đó, số lượng dân cư sống trong các khu vực bảo vệ di tích rất lớn, chiếm xấp xỉ 1/2 dân số thành phố. Vì vậy, mọi hoạt động liên quan đến bảo vệ di tích đều có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của người dân và nhu cầu phát triển2.
Trong những năm qua, phần lớn các di tích chính đã được đầu tư tu bổ và tôn tạo hệ thống sân vườn, cảnh quan và trồng cây bổ sung ở các khu vực đệm. Nổi bật như việc trồng lại vành đai xanh lăng vua Minh Mạng, tôn tạo phục hồi cảnh quan vườn Cơ Hạ…Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã thành lập phòng Cảnh quan Môi trường với hơn 70 cán bộ, kỹ sư, nghệ nhân chuyên làm công tác vệ sinh môi trường, gây dựng và trồng mới cây xanh, hoa kiểng, nghiên cứu tôn tạo môi trường cảnh quan. Chính công việc đó đã làm thu hẹp không gian hoang phế, từng bước trả lại các giá trị cảnh quan vốn có của Cố đô, mang lại sinh khí cho di tích, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần quan trọng trong việc giao lưu và hợp tác văn hóa trong nước và quốc tế.
Bên cạnh đó, việc nâng cấp cơ sở hạ tầng và các trục đường Thành phố Huế đã được quan tâm, nhất là các trục đường trong Kinh thành, đường đến một số điểm di tích. Đặc biệt là việc chỉnh trang, tôn tạo 2 bên bờ sông Hương, nạo vét sông Ngự Hà và tu bổ kè Hộ thành hào đã tạo điều kiện để phát triển dân sinh và chỉnh trang đô thị. Việc giải tỏa gần 300 hộ dân ở khu vực Bến Me và Hộ Thành Hào, hơn 50 hộ dân ở Thượng thành mặt Nam, hàng chục hộ dân ở đàn Xã Tắc, Võ Miếu, gần 100 hộ dân dọc theo Ngự Hà…với kinh phí hàng chục tỉ đồng phần nào trả lại cảnh quan cho mặt Nam Kinh thành Huế.

Khai thác và phát huy giá trị các di sản
Khai thác và phát huy giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể Di tích Cố đô Huế là giải pháp tốt nhất để bảo tồn di tích, làm cho di tích sống, hòa vào cuộc sống của xã hội đương đại, có tác dụng giáo dục và nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế, tạo nguồn sinh lợi để bảo tồn di tích. Việc khai thác hợp lý làm cho di tích thoát khỏi sự lãng quên, hướng đến xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích. Phát triển du lịch là xu thế tất yếu của xứ sở giàu di sản văn hóa này.
Đây cũng là lĩnh vực thể hiện kết quả trực tiếp của công tác bảo tồn di sản. Nhờ những thành tựu của công tác bảo tồn mà Di sản văn hóa Huế đã được quảng bá hình ảnh rộng rãi trên toàn thế giới, tạo nên sức hút to lớn của Huế đối với du khách thập phương và góp phần làm cho ngành du lịch dịch vụ của Thừa Thiên Huế có những bước phát triển nhanh chóng, thực sự đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Bên cạnh đó, việc khai thác và phát huy giá trị di sản cũng đã tạo điều kiện cho công tác phục hồi các ngành nghề thủ công, các nghi lễ và nghệ thuật truyền thống. Các nghề đúc đồng, sơn thếp, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, làm diều Huế, may áo dài, thêu, chằm nón lá, làm kẹo mè xừng, tôm chua, nghệ thuật ẩm thực, ca Huế… đã có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ để đáp ứng các nhu cầu của ngành du lịch. Doanh thu từ hoạt động du lịch dịch vụ luôn tăng trưởng với tốc độ rất nhanh. Tính đến năm 2012, tổng doanh thu ngành du lịch dịch vụ của tỉnh đã đạt hơn 2500 tỷ đồng (chiếm hơn 48% GDP của toàn tỉnh).
Di sản văn hóa cũng trở thành hạt nhân cho các hoạt động và sự kiện văn hóa của vùng đất cố đô. Với chủ đề “Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển”, Festival Huế được tổ chức vào các năm chẵn, cùng với Festival Nghề truyền thống tổ chức vào các năm lẻ đã tạo nên một thương hiệu đặc biệt, có tiếng vang và sức thu hút to lớn không chỉ trong nước mà còn trên bình diện quốc tế.
Từ những thành tựu về bảo tồn và phát triển văn hóa, du lịch, tỉnh Thừa Thiên Huế đã có những sự điều chỉnh kịp thời trong cơ cấu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Từ cơ cấu Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ chuyển thành Dịch vụ – Công nghiệp – Nông nghiệp, trong đó xác định phát triển các ngành dịch vụ có tính quyết định hàng đầu. Di sản văn hóa giai đoạn này hơn bao giờ hết đã trở thành hạt nhân và động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh.
Việc thực hiện công cuộc bảo tồn di sản Huế đã để lại nhiều kinh nghiệm và bài học quý giá. Đó là bài học về sự nhận thức vai trò đặc biệt của di sản trong đời sống hiện tại, về sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp các ngành từ trung ương đến cơ sở, là bài học về việc phát huy nội lực vốn có, về việc huy động rộng rãi sự ủng hộ giúp đỡ của cộng đồng quốc tế với vai trò nổi bật của UNESCO, về việc kết hợp chặt chẽ giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của nhà nước và cộng đồng các tầng lớp xã hội…  
20 năm qua cũng đánh dấu những bước trưởng thành vượt bậc của đội ngũ những người làm công tác bảo tồn cả về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, cũng là quá trình bồi đắp thêm nhiệt huyết, tình yêu đối với di sản văn hóa. Đến nay, Huế được đánh giá là địa phương đi đầu trong cả nước về bảo tồn di sản, có khả năng xây dựng thành một trung tâm chuẩn mực về chuyển giao công nghệ bảo tồn tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Bước vào thời kỳ mới, dù gặp nhiều khó khăn bởi tình hình nền kinh tế chung của thế giới và đất nước dẫn đến sự hạn chế về đầu tư, những khó khăn về cơ chế chính sách chưa được tháo gỡ, mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển, sự cạnh tranh của các khu di sản thế giới ngày càng nhiều… nhưng sự nghiệp bảo tồn di sản Huế đang gặp rất nhiều thuận lợi: Đó là sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước thể hiện qua Kết luận 48 của Bộ Chính trị ngày 25/5/2009, Quyết định 818TTg và Quyết định 1880TTg của Thủ tướng Chính phủ, không chỉ xác định đường lối chiến lược để bảo tồn và phát huy di sản cố đô Huế mà còn gắn liền với những chính sách hỗ trợ cụ thể. Đó cũng là sự quan tâm sát sao của Đảng bộ, Chính quyền và cộng đồng các tầng lớp nhân dân Thừa Thiên Huế đối với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa. Đó còn là sự quan tâm, ủng hộ ngày càng sâu rộng, hiệu quả của cộng đồng quốc tế đối với di sản văn hóa Huế.
20 năm qua thực sự là chặng đường khó khăn gian khổ với rất nhiều thử thách, nhưng cũng là chặng đường gắn liền với những thành tựu to lớn của sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa Huế. Trong chặng đường trước mắt và tương lai lâu dài, di sản văn hóa chắc chắn vẫn sẽ là nền tảng, là hạt nhân cho sự phát triển toàn diện, bền vững của cố đô Huế.
<1> Tổng kinh phí tu bổ trong 15 năm (1996-2010) trên lĩnh vực trùng tu và tôn tạo di tích Cố đô Huế là: 586.312.000.000 đồng (đạt 81,4% kế hoạch dự kiến), trong đó:
+ Ngân sách Trung ương: 250,460 tỉ đồng
+ Ngân sách địa phương: 245,497 tỉ đồng
+ Tài trợ Quốc tế: 90,355 tỉ đồng
Trong 3 năm 2011, 2012 và 2013, ngân sách tu bổ đạt xấp xỉ 200 tỷ đồng, trong đó nguồn từ trung ương đạt 90 tỷ.    
<2> Xem thêm Phan Thanh Hải: “Cư dân trong vùng di tích – lịch sử, hiện trạng và những ảnh hưởng đối với cơ cấu dân cư và chính sách phát triển của Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3/2008.

TS. Phan Thanh Hải