Nhận diện tiềm năng phát triển du lịch của Làng nghề truyền thống vùng Đồng Bằng sông Hồng

Trong quá trình khảo sát thực trạng Làng nghề truyền thống (LNTT), thuộc đề tài “Nghiên cứu và xây dựng mô hình Làng nghề – Du lịch và Làng Di sản – Du lịch khu vực Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới”, nhóm tác giả đã nhận thấy LNTT vùng ĐBSH chứa đựng nhiều giá trị tiềm tàng cho phát triển du lịch. Tuy nhiên, việc khai thác, phát huy các tiềm năng này chưa được hiệu quả, sản phẩm du lịch làng nghề đơn điệu, thiếu tính đặc trưng. Qua bài báo, nhóm tác giả muốn đưa ra những nhận diện tiềm năng phát triển du lịch của LNTT vùng ĐBSH. Trên cơ sở nhận diện này, nhóm tác giả hi vọng góp phần xây dựng định hướng phát triển du lịch LNTT theo hướng bền vững, vừa gìn giữ được tài nguyên, vừa tạo sản phẩm du lịch mới hấp dẫn.

Làng xã nông thôn vùng ĐBSH phần lớn là các làng xã truyền thống đã được hình thành từ hàng trăm năm, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, lịch sử phong phú, đại diện cho văn hóa của người Việt. Trong đó, nổi bật là các giá trị về văn hóa LNTT và các di sản văn hóa khác như công trình kiến trúc đình, chùa, cảnh quan, văn hóa ẩm thực, nghệ thuật biểu diễn, lễ hội… Những giá trị là những tiềm năng để phát triển kinh tế dịch vụ du lịch nông thôn.

Theo thống kê năm 2016 cả nước có khoảng 5000 làng nghề trong đó 1700 làng nghề đã được công nhận. Theo Quyết định số 85/2009/QĐ- UBND về việc “Ban hành quy chế xét công nhận danh hiệu “LNTT Hà Nội”. Đến năm 2016 Thủ đô Hà Nội đã xét công nhận 276 làng nghề. Nhiều tỉnh cũng quan tâm phát triển, công nhận làng nghề như Hà Nam (163 làng năm 2010), Bắc Ninh (140 làng trong đó có 32 LNTT)… Các LNTT đã được khôi phục và phát triển gần đây như gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, mây tre đan Phú Vinh, dệt lụa Nha Xá, nghề gỗ ở Hữu Bằng… có một tiềm năng về thu hút khách du lịch bởi du khách có thể thông qua tìm hiểu về nghề được hiểu biết sâu sắc thêm về văn hóa Việt, được trải nghiệm làm nghề, được tiếp cận các sản phẩm nghề độc đáo. Bước đầu một số địa phương đã có kết hợp đưa khách tới thăm quan du lịch như Bát Tràng, Phú Vinh.

Nhiều tiềm năng như vậy nhưng việc khai thác phát triển du lịch dựa trên các thế mạnh ở các LNTT hiện nay còn rất hạn chế, nhiều địa phương không đưa được khách du lịch tới vì môi trường ô nhiễm, không có không gian giới thiệu sản phẩm địa phương cho du khách, không có sản phẩm lưu niệm để khách mua… Các làng có nhiều di sản truyền thống cũng chưa biết khai thác tốt các giá trị này để phát triển du lịch, thúc đẩy việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống, kể cả khôi phục các nghề truyền thống đã mất. Đánh thức được tiềm năng là khai quật được giá trị du lịch tiềm tàng vô giá từ đó xây dựng được sản phẩm du lịch có tính đặc thù.

Qua quá trình đánh giá thực trạng các làng nghề đại diện cho 4 nhóm LNTT gốm sứ, mây tre đan, dệt và mộc, tác giả đưa ra nhận diện tiềm năng phát triển du lịch của LNTT tại vùng ĐBSH như sau:

1. Giá trị LNTT

a. Giá trị tinh hoa công nghệ sản xuất truyền thống:

Để tạo ra một sản phẩm nghề, đòi hỏi người thợ nghề phải có tính kiên trì, khéo léo và tỉ mẩn qua nhiều giai đoạn, từ khâu lựa chọn nguyên liệu đến lúc thành phẩm. Mỗi sản phẩm nghề gắn liền với sự đam mê, kỹ thuật của mỗi người thợ. Những sản phẩm khi hoàn thiện sẽ là biểu tượng cho tinh hoa của công nghệ.

Sản phẩm có tính truyền thống có tính biểu tượng cao: Sản phẩm nghề truyền thống là biểu tượng của người nông dân Việt Nam

Sản phẩm có tính thừa kế và phát triển trong thời đại mới: Sản phẩm làng nghề có khả năng kế thừa vốn giá trị truyền thống, từ đấy tích hợp với chức năng mới trong thời đại hiện nay để tạo sản phẩm mới.

Sản phẩm có thể nhân rộng ra cộng đồng cùng thực hiện: Những sản phẩm gắn với nhà nông tưởng như đã mất trong đời sống của người dân ĐBSH đã được người dân gìn giữ bằng tất cả đam mê, nhiệt huyết và sự biết ơn. Những sản phẩm có giá trị thấp nhưng nếu được nhân rộng trong cả làng vẫn mang lại niềm vui, bởi người dân lấy công làm lãi, vừa có thu nhập vừa gìn giữ được nghề truyền thống mà cha ông để lại.

b. Giá trị vật liệu:

Mỗi sản phẩm LNTT gắn với loại vật liệu khác nhau. Chính vật liệu đã tạo ra những ấn tượng, hình thái, màu sắc đặc trưng của sản phẩm. Ngoài ra vật liệu còn gắn với giá trị của dân tộc, làng xã, lịch sử đấu tranh giải phóng và con người Việt Nam. Qua vật liệu, có thể giới thiệu cho thế giới biết con người, văn hóa Việt Nam.

Sản phẩm có khả năng phát triển đồ lưu niệm: Sản phẩm nghề ở ngoài chức năng phục vụ sinh hoạt, còn được ưa chuộng trong trang đồ trang trí nội thất, lưu niệm. Chính vì vậy, khả năng phát triển sản phẩm thành đồ lưu niệm, nhất là đồ trang trí nội thất, vật dụng nhỏ sẽ là tiềm năng phát triển mới đối với các sản phầm nghề.

2. Các giá trị văn hóa khác của LNTT

Giá trị công trình tôn giáo, tín ngưỡng: LNTT còn lưu giữ được hệ thống các công trình tôn giáo tín ngưỡng như đình, chùa, miếu, nhà thờ,… Các công trình hình thành từ lâu đời, có giá trị văn hóa lịch sử cao. Theo khảo sát nhóm nghiên cứu, hầu hết các công trình di tích này mới được tu bổ, tôn tạo. Đây là những tiềm tăng lớn để phát triển du lịch văn hóa lịch sử – nghề.

Giá trị di sản cảnh quan truyền thống: Tuy LNTT chịu tác động mạnh của quá trình đô thị hóa, nhưng một số làng vẫn giữ được giá trịnh kiến trúc cảnh quan truyền thống. Vẫn còn những mái ngói thâm nâu ẩn hiện dưới những lũy tre xanh hiền hòa, những gốc nhãn cổ thụ. Hình ảnh những cây cổ thụ, mái đình soi bóng xuống mặt nước, tiêng ve kêu mùa hè yên bình đến lạ.

Giá trị di sản về cấu trúc làng: Theo khảo sát nhóm nghiên cứu, các LNTT vẫn còn giữ cấu trúc làng truyền thống. Bên cạnh cấu trúc làng, LNTT còn lưu giữ nhà ở nông thôn đều có dạng mô hình chung là nhà –vườn- ao. Đây là nét chung của vùng nông thôn vùng ĐBSH.

Sản phẩm nông nghiệp: Tỉnh thuộc vùng ĐBSH nổi tiếng với lúa, hoa màu, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản. Sản phẩm nông sản đã trở thành các món ăn đặc sản, nhãn lồng cũng là được xem là đặc sản. Thưởng thức món ăn truyền thống đậm vị cùng nhâm nhi những tách trà để cảm nhận những tinh túy của vùng ĐBSH. Hàng năm đến mùa ăn quả thu hoạch, người dân dừng mọi hoạt động sản xuất khác như đan lát để tập trung vào việc thu hoạch và bảo quản nông sản, cung cấp cho thị trường trong nước và nước ngoài.

Hội làng: Hàng năm, LNTT vùng ĐBSH có Lễ hội truyền thống đầu năm. Đây là dịp diễn ra các trò chơi dân gian như đấu vật, đu,…bên cạnh đó còn có chương trình hát ca trù do các nghệ nhân ca trù thể hiện.

Truyền thống hát ca trù: Người dân có truyền thống hát ca trù, hàng năm câu lạc bộ ca trù trong làng nghề thường đóng góp các tiết mục ca múa hát của mình đến các hội thi trong huyện và tỉnh thuộc vùng ĐBSH.

Những điệu hát đối gắn với nghề: Ngày xưa, khi mọi người ngồi quây quần bên nhau đan rọ đó, người ta thường cất lên diệu hát đối quen thuộc.

Kết luận

Tóm tại, LNTT còn chứa đựng tiềm năng để phát triển dịch vụ du lịch. Từ bí quyết sản xuất, giá trị hình tượng sản phẩm, khả năng tiếp nối thực tế, đến giá trị vật liệu sản xuất… Nhận diện được tiềm năng phát triển du lịch LNTT là bước đệm cần thiết để xây dựng bộ sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn.

Để phát huy các tiềm năng phát triển du lịch LNTT cần làm các vấn đề sau:

  • Xây dựng tiêu chí đánh giá tiềm năng LNTT;
  • Xây dựng bộ khung giá trị tiềm năng cho mỗi nhóm LNTT;
  • Xây dựng chiến lược, định hướng phát huy các tiềm năng đó;
  • Xây dựng các chính sách, tăng cường tham gia cộng đồng vào gìn giữ và phát huy các tiềm năng LNTT.

NCS.ThS. Nguyễn Thu Hương
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 02-2020)

———————————————————————–

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Anh (2014), “Cấu trúc xã hội của dân cư làng nghề vùng ĐBSH, Nghiên cứu trường hợp ở 2 làng nghề huyện Thường Tín, TP Hà Nội” – Luận án Tiến sĩ xã hội học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Nguyễn Trí Dĩnh (2005), “Những giải pháp phát triển làng nghề ở một số tỉnh vùng ĐBSH” – Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
3. Phạm Cao Quý (2016), “Bảo vệ và phát huy giá trị nghề thủ công truyền thống gắn với phát triển du lịch” – Tạp chí di sản văn hóa, Số 3(56)-2016.
4. Nguyễn Thu Hạnh (2013), “Tư duy sáng tạo sản phẩm du lịch: Khái niệm và phương pháp tiếp cận” – Nhà xuất bản xây dựng, Hà Nội.
5. Lê Xuân Tâm, Nguyễn Tất Thắng (2013), “Phát triển làng nghề tỉnh Bắc Ninh trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới” – Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, tập 11, số 8: 1214-1222.
6. Nguyễn Vĩnh Thanh (2006), “Xây dựng thương hiệu sản phẩm LNTT vùng ĐBSH hiện nay” – Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.