Trong đời một KTS làm tu bổ di tích, có vô vàn câu chuyện buồn vui, khóc cười. Xin được kể vài câu chuyện buồn nhiều hơn vui trong nghiệp KTS tu bổ di tích.
Chuyện đầu tiên – buồn
Vào năm cuối của thế kỷ trước, chúng tôi nhận thi công tu bổ Thái miếu nhà Lê ở phường Đông Vệ thành phố Thanh Hóa. Đây là nơi thờ chung các vị Hoàng đế, Hoàng Thái hậu, cùng các Vương, Công triều nhà Hậu Lê với đủ các ban thờ, bài vị. Công trình Thái miếu đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia theo quyết định số 2861/QĐ-BT, ngày 04/9/1995, và phương án thiết kế tu bổ đã được lập và được các cấp có thẩm quyền phê duyệt với dự toán thi công cụ thể, có một số chi tiết cũng chẳng cần phải bàn bạc gì ví dụ tường xây bao quanh dày 33 cm, mất 16 chân tảng bằng đá cần gia công thay thế… thôi thì cứ chuẩn bị tập kết, khai triển công trường, di chuyển hiện vật trước khi hạ giải để tu sửa.
Khi bắt đầu hạ giải và tháo ngói xuống, tất cả chúng tôi giật mình, bức tường bao quanh không phải là 33 cm (như cấu tạo sách vở kiểu TCXDVN) mà móng dày hơn 1 m còn thân tường dày hơn 75 cm được xây bằng loại gạch vồ từ thời Mạc, với mỗi viên nung như sành to gần bằng cái tiểu, tạm tính chỉ riêng bức tường này mà đi đặt gạch thửa thì nuốt gọn luôn toàn bộ dự toán công trình được giao phó. Nhưng nhận việc rồi, làm sao mà đậy cả công trình lại để bàn tính, xin ý kiến xử lý. Và theo quy định, nếu phát sinh vượt 30% dự toán thì phải lập dự án điều chỉnh, quy trình này đòi hỏi thời gian kéo dài hàng năm. Cũng lại oái oăm là tất cả các cấp từ trung ương tới địa phương đều đã thống nhất thời hạn hoàn thành công trình để kịp chương trình kỷ niệm cấp quốc gia. Thế là tả tơi kinh phí, công trường vẫn cứ phải làm, vật liệu vẫn phải đưa đủ về, công trình “dôi” ra 16 chân tảng, người thiết kế tưởng là bị mất nhưng hóa ra là dân ta trước đây khi tôn nền lên cao lấp kín luôn dưới lớp lát, không phải chi tiền nhưng cũng chẳng thêm bớt được kinh phí theo dự toán. Công trình cứ hoàn thành và nợ treo không thanh toán đeo đẳng hàng năm trời và hầu như chẳng giải quyết được.
Ngẫm nghĩ tìm nguyên cớ của bài học khốn khổ này: Đơn giá thiết kế tu bổ di tích được tính theo mức sửa chữa nhà cũ, người thiết kế lập dự án cũng chưa từng biết về thi công tu bổ di tích nên tiến hành sơ sài, đại khái. Phía giao việc chỉ nhìn nhận thấy đấy là việc có tiền và kết quả là đổ nợ cho đơn vị thi công thực tế. Đó là chưa kể những hư hỏng lớn bé, ít nhiều chỉ xuất hiện khi hạ giải tháo dỡ từng cấu kiện gỗ rời khỏi vị trí mới xuất lộ, cho dù có ghi chép hồ sơ tu bổ cũng không ai kê cho hết được những thất thiệt mà người thi công thường phải lo toan và gánh chịu.
Chuyện thứ hai
Không vui mà cũng chưa buồn, chỉ có thể nói là may. Đó là nhân một chuyến khảo cứu cho một hạng mục thuộc khu di tích Đền Cửa Ông, khi dạo một vòng qua thềm đền Quan Châu thì chỉ huy công trường chỉ cho tôi một chồng cấu kiện đã gia công xong chờ dựng lắp, anh mau mắn mô tả hình hài ngôi đền cùng tập hồ sơ thiết kế. Xem qua, theo kinh nghiệm tôi mới thắc mắc sao lại có 2 gian, bèn được trả lời rằng các cụ ở địa phương đều kể rằng đền xưa có 2 gian, nhưng theo kiến trúc truyền thống chưa bao giờ có nhà 2 gian quay hiên ra phía sân trước (giữa nhà bổ cột trước mặt), từ trên thềm cao hơn của sân đền Quan Chánh, nhìn kỹ lại mới thấy vết mờ của móng ban thờ trên sân cũ sau cơn mưa, chụp hình ghi lại và khi về phóng ảnh ra thì khẳng định chắc chắn ngôi đền này đúng là có 2 gian nhưng xoay dọc theo đầu hồi làm hiên hướng ra sân trước kiểu “Miếu Mường”. Thế là một phương án nhanh chóng điều chỉnh và ngôi đền được phục dựng đúng như dạng xưa – thiết kế phí bổ sung tặng công ty .


Chuyện như vậy phải nói là rất may mắn vì phục dựng di tích đền thờ cũng có thể hiểu đơn giản như lập một bát hương, khi đã đặt cốt, thiên hạ thắp hương nhang tới tấp vào rồi muốn thay còn khó, huống chi đây lại là hướng của một ngôi đền (không kể kích khổ nhỏ hay lớn). Trường hợp này, chỉ có thể nói kinh nghiệm nghiên cứu dự án tu bổ di tích cần suy xét cẩn thận, nghiên cứu dữ liệu khảo tả, vết tích tại công trình, tư liệu thu thập từ các nguồn… để đề xuất những phương án tu bổ phục hồi với các cứ liệu chuẩn xác.
Chuyện thứ 3

Vui – Vì Tháp chùa Phổ Minh không thể lún! Năm 1992, Liên minh châu Âu (EU) có ngài đại sứ tên Trần Văn Thình kêu gọi được một nguồn tài chính của các tổ chức ngoại giao nguyện đầu tư tu bổ bảo tồn tổng thể chùa Tháp Phổ Minh thuộc xã Lộc Vượng – thành phố Nam Định. Dự án được khảo cứu, lập hồ sơ thiết kế tu bổ từ tổng thể tới từng hạng mục. Trong đó, hạng mục quan trọng nhất là ngôi tháp 14 tầng, tương truyền trong đó có quách chứa xá lỵ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Vì là hạng mục chính yếu nên đơn vị thi công chúng tôi thực hiện việc tu bổ tuần tự với tất cả các hạng mục gồm Tiền Đường, Tam Bảo, Hậu Cung, Nhà Tổ, Phủ Mẫu, Tả Hữu vu, Ni phòng… hoàn chỉnh theo thức “nội công ngoại quốc”, cách thức thi công khoa học và lưu giữ hồ sơ tu bổ hoàn công cẩn trọng, và cuối cùng mới bắt tay nghiên cứu ngôi Tháp cổ đã có hơn 700 tuổi.
Theo giới thiệu rõ ràng là nền chân tháp thấp hơn mặt sân chùa tới gần 70 cm, thậm chí có người còn chỉ rõ chân góc tháp bị nền đè xuống bẻ cong bốn góc lên và tháp bị nghiêng nhìn mặt thường cũng thấy rõ – Thoạt nghe có vẻ có lý, song theo nguyên tắc tu bổ, cần dựa vào kết quả nghiên cứu khoa học và kỹ thuật – may mắn chúng tôi mượn được thiết bị xuyên thăm dò nền đất cơ động của Thụy Điển mà Viện khoa học kỹ thuật xây dựng đang có, đưa vào khu vực chân tháp, dùng 4 người đứng lên đế bàn xuyên để làm đối trọng, thiết bị khoan sâu khoảng 50 cm thì mũi thép không thể đâm xuống tiếp được.
Tức là phần móng của ngôi tháp có chất liệu rất cứng. Chúng tôi liên tưởng tới các tảng đá sa thạch lớn là móng của Tháp Báo Nghiêm của chùa Bút Tháp (được đào bật lên thay thế bằng bè móng bê tông cốt thép trong quá trình tu bổ bảo tồn cả 3 ngôi tháp cổ Bình Sơn ở Vĩnh Yên, Báo Nghiêm ở Bắc Ninh và Phổ Minh ở Nam Định đều đã được thi công bảo tồn theo chỉ đạo của ngành Văn Hóa trong những thập niên 70~80 thế kỷ trước – nhưng riêng với tháp Phổ Minh mới chỉ thực hiện dỡ xây tới tầng thứ 8 thì dừng lại và xây lắp hoàn nguyên lại sau khi thấy khối quách đá. Từ kết quả thăm dò sơ bộ, chúng tôi thực hiện đào thám sát cấu trúc móng theo cách thức khai quật khảo cổ học thì một kết quả hoàn toàn bất ngờ, chúng tôi được chứng kiến và đầu tiên hiểu được một thành tựu kỹ thuật xây dựng nền móng kỳ tài của cổ nhân dành cho công trình lớn trên nền đất yếu – Đó là tạo ra một khối móng bằng hỗn hợp sỏi cuội nện chặt với đất sét vàng dày khoảng 70cm rộng hơn đế tháp 60 cm, tất thảy “ngồi” trên lớp đệm sỏi đầm chặt với lớp đất sét đen dày hơn 30 cm phía dưới. Như vậy là với cấu trúc này, phần đế móng trở thành một khối kết cấu vô cùng chắc bền, tồn tại bất khả xâm thực, cả những khi có mạch nước ngầm hay ngập sâu trong mùa úng, minh chứng là phần 2 tầng đế tháp bằng đá khối không hề biến dạng, nứt nẻ trong suốt hơn 700 năm mà với ước tính trọng lượng của ngôi tháp khoảng hơn 700 tấn . Điều này được phát hiện này trước khi chúng ta khai quật và tìm hiểu di tích Hoàng thành Thăng Long hàng chục năm .


Như vậy là ngôi tháp không thể lún, thế vì sao nền đế lại thấp hơn mặt sân tới hơn nửa thước? và chúng tôi đã tìm ra căn nguyên rất cụ thể: Khi xây dựng chùa, phần trước sân không có hồ giếng gì cả, vào thời kỳ sau, theo ý thức tạo cảnh quan theo kiểu phong thủy, người ta cho đào 2 giếng rộng hình tròn đường kính hơn 20m, sâu gần 3m, toàn bộ khối lượn đất đó được dùng để tôn đắp toàn mặt sân cho cao ráo, nhưng tới ngôi Tháp, người ta không dám xâm phạm tới vẻ đẹp đã nổi danh và được lưu truyền, bèn cho xây một áo nền sân bao quanh chân tháp và xử lý lối bậc bó cấp rồng đá cho hoàn thiện phần không gian chân tháp như ngày nay .
Sau báo cáo nghiên cứu và kết luận này, toàn bộ cơ quan chính quyền tỉnh Nam Định, sở Văn Hóa, Bảo tàng tỉnh, các nhà tài trợ và đơn vị tư vấn và thi công tu bổ di tích đều thở phào, mừng vui vì nỗi lo ngại bao lâu nay đã được hóa giải bằng kết luận tốt hơn mong đợi, và tất nhiên phần kinh phí dự kiến cho công đoạn này cũng không phải xuất chi – Vui tất thảy với một di tích nổi tiếng của nước nhà tồn tại vượt thời gian mà không bị xâm phạm.

Thay lời kết
Ba câu chuyện trên chỉ là những kỷ niệm hành nghề, hành nghiệp của người tham gia tu bổ di tích lâu năm, vắn tắt có mấy điều muốn nói:
Bao nhiêu năm trước, ở nước ta không hề có một cơ sở đào tạo nào, môn học nào về cách hành nghiệp tu bổ, bảo tồn di tích. Một trung tâm nhỏ bé của Bộ Văn hóa khi đó được lập ra với tên gọi: “Bảo quản và tu bổ di tích Trung ương” chỉ chưa đầy ba chục người, trong đó những người có bằng cấp KTS hay kỹ sư đếm chưa hết trên đầu ngón tay. Vậy mà, những ngày ấy, với kinh phí nhà nước cấp rất khiêm tốn, trang thiết bị nghèo nàn, thiếu thốn đủ thứ, lại được tu bổ khá thận trọng, phương án nghiên cứu, thiết kế lập ra, báo cáo trình bày chuyên môn trước hội đồng, tổ chức thi công. Các ông thầy của công trường. các thợ chính là nghệ nhân, cùng với những kiến thức về kiến trúc và khoa học gom nhặt từ trường đại học đã giúp chúng tôi hoàn thành công việc, thày thợ được yêu quý đúng với nghĩa của câu “đi dân nhớ, ở dân thương”. Những năm tháng đó là những kỷ niệm đẹp đẽ của một “thời tu bổ di tích bao cấp”.
Bước vào thời kỳ mở cửa, các dự án tu bổ di tích được mở ra với sự quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Kinh phí ngân sách và các nguồn hợp pháp khác có khối lượng khổng lồ đổ vào, các KTS và công ty tu bổ di tích nhận việc theo thể thức đấu thầu với giá cạnh tranh, dự án lập theo nguyên tắc định mức thiết kế tu sửa nhà cũ . Xu thế xây dựng trong cơ chế thị trường đã phần nào làm mai một, biến hóa những giá trị đích thực nghề tu bổ di tích và không gian các công trình di sản dưới tiêu chí tôn tạo vì “phát triển du lịch văn hóa tâm linh”
Những câu chuyện buồn vui trong nghề tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp, không ngoài mục đích để chúng ta có một tiếng nói dù là nhỏ bé của những người làm công tác tu bổ di tích. Những mong sau này, khi tới một di tích ta vẫn còn được thấy những vết tích, văn hóa nghệ thuật của cha ông để thực sự tự hào.
KTS Trần Quang Trung
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 10-2018)