Phân loại biểu tượng “Con Nghê” trong văn hóa Việt

Tiếp theo Phần I trên Tạp chí kiến trúc số 12-2014 

Với những biểu hiện vô cùng phong phú của “Con Nghê” trong nghệ thuật tạo hình của người Việt thì việc phân loại biểu tượng Nghê là một công việc không hề dễ dàng. Do con Nghê không có các huyền thoại đi kèm như Rồng hay Kỳ lân nên việc phân loại Nghê theo nguồn gốc (tên gọi, huyền thoại) là bất khả thi.

Vì vậy, chúng ta chỉ có thể phân loại linh vật biểu tượng này dựa trên các tiêu chí phân loại sau: Phân loại theo hình thức biểu hiện; phân loại theo vị trí đặt; phân loại theo chức năng sử dụng; phân loại theo giai đoạn lịch sử; phân loại theo khu vực địa lý.Từ việc phân loại, chúng ta mới có thể xác định được các giá trị của biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam.

Phân loại theo hình thức biểu hiện

fjtjhrtĐây là biện pháp phân loại đơn giản nhất vì chúng ta có thể dựa vào trực giác quan sát và xếp loại các biểu tượng Nghê cho phù hợp với hình thức biểu hiện của chúng. Chẳng hạn, Nghê có sừng hay không có sừng; Nghê có bờm và không có bờm; Nghê có vảy với Nghê có lông xoắn; Nghê có móng guốc và Nghê có vuốt;… Thậm chí, chúng ta có thể phân loại Nghê theo hình dáng tổng thể như Nghê dáng chó hay Nghê dáng sư tử. Mặc dù cách phân loại đơn giản và tiện lợi này có thể áp dụng được cho nhiều người (cho dù họ có ít hiểu biết về Nghê) nhưng với hình thức biểu hiện đa dạng như con Nghê, chúng ta không thể phân làm quá nhiều loại khác nhau dựa vào những biểu hiện bên ngoài của chúng. Chính vì vậy mà một phương pháp phân loại theo vị trí sẽ giúp chúng ta dễ xác định được đâu là Nghê còn đâu là những linh vật khác.

Phân loại theo vị trí đặt

dfgdfgDựa vào các đặc tính dân gian đã được định hình trong văn hóa Việt Nam như “Phượng múa Nghê chầu” chúng ta có thể xác định được vị trí của con Nghê là ở những nơi canh cổng, canh cửa, hầu hạ. Theo Từ điển tiếng Việt1 thì “chầu” là động từ có nghĩa “hầu trong cung đình để chờ nghe lệnh vua, chúa”. Như vậy, vị trí “ngồi chầu” của con Nghê đã xác định rõ vị trí “kẻ hầu người hạ” của nó trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Khi văn hóa Trung Hoa có tác động mạnh mẽ vào văn hóa dân gian của người Việt thì vị trí này có biến đổi chút ít nhưng vẫn chủ yếu là “chầu” Con Nghê có thể chầu ở hai bên trụ cổng, chầu ở tả vu hữu vu của các ngôi đình, ở dưới cánh cửa trong vai trò của “con cộ” – cộ cửa,… Nhưng đôi khi chúng ta cũng có thể thấy Nghê ngồi trên mái, trên bệ uy nghi như…sư tử nhưng ngôn ngữ tạo hình lại cho thấy rõ đó là Con Nghê. Để phân biệt được Nghê hay sư tử khi chúng “ngồi nhầm vị trí” chúng ta cần xét đến chức năng của các linh vật này.

Phân loại theo chức năng sử dụng

dfhfdTrong văn hóa Ấn Độ, sư tử (simhamukha) là linh vật đại điện cho sức mạnh của tự nhiên có mặt trong các huyền thoại và biểu hiện của nghệ thuật tạo hình Hindu từ hàng nghìn năm trước khi được vua Asoka (A Dục đế – triều Maurya) đưa vào làm biểu tượng trọng tâm của “cột kinh Asoka”. Khi Phật giáo truyền bá sang Trung Hoa, biểu tượng này trở thành một biểu tượng sức mạnh trong Phật giáo Trung Hoa bên cạnh vai trò là một con vật “bảo vệ” (guardian) trong nghệ thuật lăng mộ Trung Hoa. Sự uy nghi và đầy vẻ “nạt nộ” này là một nét đặc trưng của sư tử trong văn hóa Trung Hoa để thể hiện sức mạnh của nó. “Ở thời điểm hoàng kim nhất của Phật giáo ở Trung Hoa, những tượng sư tử đá to lớn không phải ở các chùa chiền, đền tháp mà chủ yếu ở các lăng mộ hoàng gia. Theo thống kê của nhà nghiên cứu Li Zhigang (2011) trong cuốn Nghệ thuật điêu khắc sư tử đá Trung Hoa, tại 21 lăng miếu hoàng gia từ thời Sơ Đường cho đến Vãn Đường còn lưu giữ đến nay có tổng cộng 76 bức tượng sư tử đá.” (2) Trong khi đó, biểu tượng Nghê hầu như chỉ mang chức năng trang trí và hoàn toàn không có “hình thức dữ dằn, gân guốc với dáng vẻ đe dọa.”(3) Những con Nghê chầu vào nhau không có vẻ quyền uy, dọa nạt mà tạo nên vẻ thân thiện, gần gũi, đúng như chức năng “trông nhà” và “hầu chủ” của chó. Đây cũng là lý do để các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đặt mối liên hệ giữa Nghê và chó dựa trên chức năng căn bản của chúng hơn là những ảnh hưởng từ một linh vật ngoại nhập như sư tử.

Phân loại theo giai đoạn lịch sử

dfhdfhĐây là một trong những cách thức phân loại phổ biến trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam dựa trên một cách thức phân loại định sẵn theo lịch đại: Thời Lý, thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn,… Cách phân loại này đã được sử dụng một cách khá “triệt để” đối với con rồng, tuy nhiên, với biểu tượng Nghê thì cách phân loại này dễ dẫn đến những sự nhầm lẫn. Do Nghê là một linh vật mang đặc tính dân gian nên tính thống nhất về mặt tạo hình của mỗi thời kỳ (Lý, Trần, Lê, Nguyễn) không cao như với biểu tượng rồng, chưa kể đến sự ngẫu hứng trong sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân dân gian. Họ không chịu sự ràng buộc nào về mặt thể thức tạo hình từ triều đình (hoặc một thể chế nào tương tự) nên họ hoàn toàn tự do trong việc sáng tác, vì vậy hình mẫu của con Nghê tùy thuộc vào cảm hứng nghệ thuật của chính họ. Đây là một trong những đặc điểm sáng tạo riêng của người Việt, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong chuyên mục sau. Để tránh sự “áp đặt” về thể thức tạo hình của biểu tượng Nghê qua các giai đoạn lịch sử, chúng ta cần có thêm một cách thức phân loại khác dựa vào đồng đại (thay vì lịch đại) và dựa vào không gian (thay vì thời gian) đối với biểu tượng Nghê tại nơi nó được chế tác: Làng nghề.

Phân loại theo khu vực địa lý

fnghfgMột trong những đặc trưng của các tác phẩm nghệ thuật dân gian của người Việt là chúng mang dấu ấn của làng nghề: Nơi sản xuất, chế tác. Chúng ta thường nghe đến nghề đúc đồng Ngũ Xã (Hà Nội), nghề chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), nghề tạc tượng gỗ Sơn Đồng (Hà Tây cũ), nghề làm gốm Bát Tràng (Hà Nội),… Những địa danh gắn với các nghề truyền thống nêu trên chính là “thương hiệu” của sản phẩm và cũng chính là một cách phân loại tự nhiên theo khu vực địa lý. Biểu tượng Nghê bằng được chế tác tại làng nghề này sẽ không giống biểu tượng Nghê của làng nghề khác. Mục đích chế tác, cách sử dụng nguyên liệu, cách tạo tác mẫu, thậm chí cách sử dụng công cụ lao động khác nhau chính là những nét riêng biệt trong nghệ thuật chế tác biểu tượng Nghê ở mỗi làng nghề. Vì vậy mà chúng ta cũng có thể phân loại biểu tượng Nghê Bát Tràng, Nghê Bình Dương, Nghê Phù Lãng,… khác nhau như thế nào. Cách phân loại này nếu được kết hợp với chất liệu tạo tác sẽ cho chúng ta một cái nhìn cụ thể nhất đối với biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam.
Trên đây là một số phương pháp phân loại biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam mà chúng tôi đã áp dụng trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta vẫn cần thêm những cách phân loại khác để đạt tới mục tiêu cuối cùng là xác định một cách rõ ràng nhất, cụ thể nhất đối với biểu tượng Nghê. Chẳng hạn một con Nghê bằng đất nung, đời Lê, được sản xuất ở Bát Tràng, có đặc trưng lông xoắn và được đặt ở ban thờ là những tiêu chí cần tìm. Nhưng vì biểu hiện của Nghê vô cùng phong phú và đa dạng nên rất khó để chúng ta có thể hội đủ các thông tin trong mỗi hiện vật. Vì vậy, mỗi cách phân loại nêu trên có thể đáp ứng được một tiêu chí mà chúng ta mong muốn. Để đạt được đủ các tiêu chí trong việc xác định biểu tượng Nghê trong văn hóa dân gian Việt Nam chúng ta cần kết hợp nhiều phương pháp phân loại với nhau. Vì vậy, việc phân loại biểu tượng Nghê càng kỹ lưỡng càng giúp chúng ta xác định được các giá trị đặc sắc của con Nghê trong nền văn hóa Việt Nam.

Giá trị của biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam

Năm 2003, khi Giải vô địch bóng đá các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 22 (SEAGAME 22) lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, các quan chức cao cấp ngành thể thao đã phải “mất ăn mất ngủ” vì mất nhiều tháng không tìm được “linh vật biểu tượng” của Việt Nam dành cho sự kiện này. Cuối cùng, Ban tổ chức đã chọn con Trâu vàng với những hình “đầu trâu” làm linh vật biểu tượng cho SEAGAME 22. Sự kiện đó qua đi, nhưng nhiều người vẫn không hài lòng với việc chọn “đầu trâu” làm logo in trên các sản phẩm đại diện cho quốc gia, vì trong văn hóa Việt Nam, thành ngữ “đầu trâu mặt ngựa” chỉ những kẻ vô lại, đầu trộm, đuôi cướp,… Thiết nghĩ, nếu Ban tổ chức lập một hội đồng tư vấn có các nhà chuyên môn, các chuyên gia nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội và nghệ thuật thì việc chọn lựa sẽ dễ dàng hơn và không xảy ra những vấn đề đáng tiếc. Theo chúng tôi, nếu một sự kiện tương tự trong tương lai được tổ chức ở Việt Nam và chúng ta cần chọn một linh vật biểu tượng của Việt Nam thì con Nghê hoàn toàn có thể là một ứng viên phù hợp với các tiêu chí đặt ra bên cạnh gà trống Gaulois của Pháp, sư tử Anh hay tê tê Fuelco của Brazil,… Các tiêu chí quan trọng nhất cần đặt ra như lịch sử, văn hóa, nghệ thuật gắn với những giá trị đặc sắc nhất của linh vật đều có thể tìm thấy qua biểu tượng con Nghê trong văn hóa Việt Nam.

Giá trị lịch sử

sdgdKhi tìm hiểu về các linh vật trong văn hóa truyền thống Việt Nam chúng ta thường nghe nói tới giao long, thuồng luồng, chim lạc,4 hay một linh vật có sừng (như di vết ở hang Đồng Nội) như là những linh vật truyền thống của người Việt có từ thời Đông Sơn, thậm chí là “vật tổ” của người Việt từ thời tiền sử. Những linh vật này được nhiều nhà nghiên cứu coi như những biểu tượng đặc trưng của nền văn minh Việt trước giai đoạn thuộc Hán vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay mà chưa bị người Hán đồng hóa. Tuy nhiên, những di vật nói trên, tuy là những hiện vật vô cùng quý giá (được bảo quản cẩn thận trong bảo tàng, được công nhận là bảo vật quốc gia,…) nhưng chúng lại là những hiện vật “chết.” Những hiện vật này, trên thực tế, chỉ là các hiện vật khảo cổ được phát hiện trong không gian cư trú của người Việt còn chúng đóng vai trò gì và được sử dụng như thế nào trong đời sống văn hóa của người Việt cổ thời Đông Sơn lại là một vấn đề đang “trên đường tìm hiểu.” (5)
Trong khi đó, một linh vật tồn tại liên tục trong suốt dòng chảy văn hóa Việt hàng nghìn năm qua lại hầu như không được nghiên cứu tới, đó là con Nghê. Con Nghê hiện hữu trên các kiến trúc cung đình thời Lý – Trần, trên đình chùa thời Lê, trên ban thờ tư gia của nhiều gia đình người Việt ngay trong giai đoạn hiện tại. Điều đó cho thấy, Nghê là một hiện vật “sống” trong đời sống tinh thần của người Việt. Tìm hiểu sự tồn tại và phát triển của biểu tượng Nghê qua mỗi thời kỳ lịch sử sẽ cho chúng ta một góc nhìn mới đối với kinh tế, xã hội, văn hóa và nghệ thuật của các giai đoạn lịch sử đó. Công việc này đã được các nhà nghiên cứu thực hiện khá thành công đối với biểu tượng con rồng trong văn hóa Việt Nam từ thời Lý đến thời Nguyễn.(6) Không hiểu sao cách làm này không được áp dụng đối với con Nghê? Phải chăng Nghê không phải là một linh vật cung đình nên không được triều đình quan tâm? Phải chăng Nghê là con vật tầm thường, thấp kém, không đáng để tìm hiểu? Với các câu hỏi này, chúng ta cần hướng sự chú ý tới các giá trị văn hóa của biểu tượng Nghê.

Giá trị văn hóa

image020Con Nghê được coi như một linh vật tiêu biểu cho tính thuần Việt và mang bản sắc văn hóa Việt Nam, nhưng trong tư liệu thành văn của Đại Việt – Việt Nam hầu như không có tài liệu nào đề cập đến linh vật này. Trong khi đó, biểu tượng Xi vẫn – một linh vật thuộc “chín con của rồng” có nguồn gốc Trung Hoa – lại được đưa vào những áng thơ văn kinh điển, chẳng hạn:
Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn
(Hình xi vẫn ngủ ngược trên gương nước lạnh
Đôi bóng tháp thon vút như ngón tay ngọc giá băng)(7)
Điều đó cho thấy quan điểm “nhất bên trọng, nhất bên khinh” của quan lại và các bậc trí giả Nho học xưa đối với các biểu tượng cung đình và bình dân. Nhưng dường như sự “thiếu quan tâm” đó lại giúp cho biểu tượng con Nghê của Đại Việt phát triển một cách tự do trong vô vàn sự ràng buộc khắt khe của thể chế phong kiến Khổng – Nho suốt hàng nghìn năm qua. Biểu tượng Nghê có mặt hầu khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ người sang đến kẻ hèn, từ các bậc thức giả đến người không biết chữ,… con Nghê với vai trò “người hầu kẻ hạ” hiện diện ở mọi tầng lớp trong xã hội và đi vào đời sống của dân gian một cách hết sức tự nhiên như chính tâm hồn của người Việt và văn hóa của người Việt.
Sự “thấm nhuần” đặc tính dân gian của con Nghê khiến cho nó trở nên một “con vật” gần gũi, thân thương hơn là một linh vật đáng sợ hãi, nể trọng và tôn thờ. Đặc tính này đi thẳng vào lòng người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội như tình cảm đối với mái đình – cây đa – bến nước hay “canh rau muống, cà dầm tương” đã bao đời ăn sâu vào trong tâm trí của người Việt. Có lẽ đặc tính văn hóa này của người Việt qua biểu tượng con Nghê đã “ngấm” vào trong dòng suy nghĩ của các nghệ nhân dân gian – những người nghệ sĩ sáng tạo nên biểu tượng Nghê – để rồi chúng lại được tái hiện ở mọi lúc mọi nơi thông qua đôi bàn tay tài hoa của họ bằng những kiệt tác của nghệ thuật tạo hình dân gian trong suốt hàng nghìn năm qua.

Giá trị nghệ thuật

sdgsdrgKhi nói đến nghệ thuật thì “tự do sáng tạo” là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Điều này không chỉ đúng với nghệ thuật hiện đại ngày hôm nay mà còn đúng với nghệ thuật dân gian của cha ông ta ngày xưa. Đơn cử con rồng, ở thời Lý, ngay sau nghìn năm Bắc thuộc, người dân Đại Việt được hưởng tự do, độc lập. Trong bối cảnh đó con rồng thời Lý ra đời và đã khẳng định được giá trị nghệ thuật vượt lên mọi đồ án rồng khác, trở thành một kiệt tác nghệ thuật của Đại Việt. Vẫn là con rồng, nhưng đến giai đoạn cuối nhà Nguyễn bị áp chế mọi bề của triều đình nhà Thanh, con rồng thời kỳ này trở nên gò ép, gai góc, lệ thuộc và thiếu sáng tạo.
Vì vậy, có thể nói rằng, yếu tố tự do được thể hiện qua nghệ thuật tạo hình con Nghê trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam là sự tự do về nghệ thuật gần như tuyệt đối. Ngoài sự tự do về ý tưởng (không bị áp đặt về tư tưởng của triều đình), các nghệ nhân dân gian còn được tự do hư cấu (vì Nghê là một con vật hư cấu) và đặc biệt là tự do sáng tạo. Với sự tự do tuyệt đối về quy mô và kiểu thức sáng tạo, các nghệ nhân dân gian có thể tùy ý tạo nên những con Nghê với hình thức và màu sắc theo ý tưởng của riêng mình,… Chính sự “tùy ý” này đã đưa con Nghê đến đỉnh cao của sự sáng tạo trong nền nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Là một linh vật hư cấu, con Nghê tích hợp các yếu tố từ nghệ thuật dân gian đến nghệ thuật cung đình, từ nghệ thuật bản địa đến nghệ thuật du nhập. Các yếu tố văn hóa từ Trung Hoa, Ấn Độ, Champa, Xiêm La, Chân Lạp, Ai Lao thông qua các con vật/linh vật khác được các nghệ nhân tích hợp lại qua trí tưởng tượng của họ để biến thành những linh vật mới mang dấu ấn nghệ thuật của riêng họ. Đáng tiếc là người Việt không có thói quen ghi tên mình hoặc các thông tin có liên quan lên tác phẩm của mình nên những kiệt tác mà chúng ta được chiêm ngưỡng ngày hôm nay đều không có một thông tin nào về tác phẩm và tác giả của chúng.(8)
Với vô số tác phẩm, vô số tác giả và vô vàn cách thức biểu hiện khác nhau nhưng biểu tượng con Nghê vẫn có những đặc tính riêng khiến chúng ta không thể nhầm với một số loài vật/linh vật khác. Vậy điều gì khiến cho con Nghê – một linh vật hư cấu – có được đặc tính riêng như vậy? Câu trả lời đó là tính biểu tượng trong nghệ thuật.(9) Có thể nói rằng, nếu tính tự do trong nghệ thuật giúp cho biểu tượng con Nghê đạt đến đỉnh cao của sự sáng tạo thì tính biểu tượng trong nghệ thuật lại là yếu tố giúp cho con Nghê xác định được đặc tính riêng – Đó là tính bản địa. Chính đặc tính này là cơ sở để các nhà chuyên môn cũng các cơ quan quản lý khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam qua biểu tượng con Nghê trong “cuộc chiến” Nghê – sư tử đang diễn ra hiện nay.
Biểu tượng Nghê đã tồn tại hàng nghìn năm qua với bao thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn tồn tại và phát triển trong văn hóa Việt Nam trở nên một linh vật biểu tượng đặc trưng trong văn hóa Việt Nam. Có điều đó là do những giá trị tự thân của con Nghê nhưng cũng phải nói thêm rằng trong quá khứ người Hán chưa “đếm xỉa” đến một con vật “hạ đẳng” như con Nghê trong suốt quá trình Hán hóa hàng nghìn năm của họ. Dường như họ chỉ đặt nặng sự đối phó quân sự với người Việt. Nhưng giờ đây dường như họ đã nhận ra sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt Nam nên đã và đang bắt đầu một quá trình hủy diệt văn hóa mới từ những linh vật “tầm thường” như con Nghê. Nếu điều này là có thực thì nguy cơ người Việt bị “diệt chủng” như người Mãn là có thể xảy ra vì những thành tố văn hóa của người Việt lại bị hủy hoại bằng chính bàn tay người Việt. Điều này còn nguy hiểm hơn cả mật lệnh của Minh Thành Tổ gửi tổng binh Chu Năng: “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn.”(10)

Kết luận

Qua nghiên cứu biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam, chúng tôi tạm đi đến một số kết luận bước đầu như sau:

– Nghê là một linh vật thuần Việt nhưng có sự tiếp thu một số thành tố văn hóa bên ngoài từ Ấn Độ, Trung Hoa,…

– Nghê là một linh vật hư cấu được kết hợp bởi chó, Kỳ lân, sư tử cùng nhiều linh vật khác hiện có hoặc từng có sự hiện diện trong văn hóa Việt Nam.

– Biểu tượng Nghê không chỉ là một tập hợp của các giá trị lịch sử và văn hóa mà còn là nơi bảo lưu các giá trị nghệ thuật trong truyền thống của người Việt.

– Để phân biệt các biểu tượng Nghê trong văn hóa Việt Nam, chúng ta có thể sử dụng các biện pháp phân loại như:

+ Phân loại theo hình thức biểu hiện

+ Phân loại theo vị trí đặt

+ Phân loại theo chức năng sử dụng

+ Phân loại theo giai đoạn lịch sử

+ Phân loại theo khu vực địa lý

Mặc dù là một linh vật mang trong mình những giá trị hết sức đặc sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam nhưng việc nhìn nhận, đánh giá về con Nghê Việt Nam hiện nay vẫn chưa được chú ý đúng mức. Chính sự thiếu quan tâm của chúng ta đã khiến cho biểu tượng con Nghê đang bị “thất thế” trước một biểu tượng ngoại nhập, lai căng, đó là sư tử Trung Hoa. Vì vậy, sự tăng cường hiểu biết của chúng ta đối với các giá trị, đặc biệt là các giá trị nghệ thuật, của con Nghê là hết sức cần thiết. Mong rằng, các cơ quan, ban ngành chức năng, các bậc thức giả, các nhà quản lý đặt mối quan tâm đặc biệt đối với biểu tượng này, coi đó như là một cách giải Hán hay thoát Trung đang được bàn luận sôi nổi trong thời gian gần đây.

(Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số VIII1.3-2012.01)

Chú thích
1. Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học xuất bản năm 1998.
2. Trần Hậu Yên Thế, “Vị thế của hình tượng sư tử trong Mỹ thuật Đại Việt.” Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số tháng 5/2014
3. Mỹ Trà, “Kiên quyết loại bỏ yếu tố ngoại lai ra khỏi di tích Việt,” trong VOV online ngày 9/12/2013. http://vov.vn/van-hoa/kien-quyet-loai-bo-yeu-to-ngoai-lai-ra-khoi-di-tich-viet-296001.vov
4. Về tên gọi chim lạc cũng có nhiều vấn đề đang tranh cãi, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một chuyên khảo dành riêng cho Hạc trong văn hóa Việt Nam.
5. Các cuốn sánh trong bộ sách viết về mỹ thuật từ thời Lý đến thời Nguyễn hầu như không đề cập đến con Nghê, trong khi con rồng được phân tích, mô tả hết sức kỹ lưỡng.
6. Trích trong Diên Hựu Tự. của Trúc Lâm đệ tam tổ- Thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254 -1334), xem: Trần Trọng Dương, “Xi vẫn – Xi vỹ: những xu hướng biến đổi hình tượng trong văn hóa Việt Nam và Đông Á,” bản thảo thuộc đề tài: Biểu tượng rồng Việt Nam trên cơ tầng văn hóa châu Á. Mã số: VIII.1.3-2012.01. Do Quỹ phát triển khoa học công nghệ quốc gia (NAFOSTED) tài trợ năm 2014.
7. Một trong những sản phẩm hiếm hoi là chiếc bình Hoa lam của Gốm Chu Đậu thế kỷ 16 được một nghệ nhân họ Bùi ghi lại, hiện đang trưng bày tại Thổ Nhĩ Kỳ, đã nâng tầm giá trị của chiếc bình lên hàng triệu đô-la.
8. Xem thêm bài: “Tính biểu tượng trong nghệ thuật” của tác giả trong tạp chí Mỹ thuật ứng dụng số 1, tháng 6/2014.
9. Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, đề ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21 – 8 – 1406) –theo bản Thư viện KHXH: 1731/I. Trong bảnViệt kiệu thư do Tề Lỗ thư xã xuất bản thì không đề ngày, nhưng xếp thứ tự ở giữa hai đạo sắc ban bố ngày 4 – 7 – 1406 và ngày 29 – 7 – 1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 26a – b.Nguyên văn (Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tụcđồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn). Dẫn theo Nguyễn Huệ Chi trong Tạp chí văn hóa Nghệ An. Xem bản đầy đủ trong: http://www.vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/goc-van-hoa-viet-nam-thu-doan-cua-minh-thanh-to-trong-cuoc-chien-tranh-xam-luoc-1406-1407

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Huệ Chi (2013), “Tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam: Thủ đoạn của Minh Thành Tổ trong cuộc chiến xâm lược 1406-1407,” Văn hóa Nghệ An số tháng 9
Trần Trọng Dương (2014), “Xi vẫn – Xi vỹ: những xu hướng biến đổi hình tượng trong văn hóa Việt Nam và Đông Á,” bản thảo thuộc đề tài: Biểu tượng rồng Việt Nam trên cơ tầng văn hóa châu Á. Mã số: VIII.1.3-2012.01
Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam – tập 1, Nxb. Tri Thức
Đinh Hồng Hải (2014), “Tính biểu tượng trong nghệ thuật”, Tạp chí Mỹ thuật ứng dụng số 1, tháng 6
Đinh Hồng Hải, Bùi Huy Vọng (2014), “Biểu tượng người có sừng ở hang Đồng Nội qua tiếp cận khảo cổ học nhân văn,” bản thảo Thông tin khoa học số 2, Trung tâm nghiên cứu Hoàng thành Thăng Long
Hoàng Phê, Cb. (1998), Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học xuất bản
Trần Hậu Yên Thế (2011), “Nhận thức tính phổ quát liên văn hóa trong mỹ thuật cổ truyền qua ví dụ hình tượng con nghê ở đề miếu,” Nghiên cứu mỹ thuật số 4 (40), tháng 12
Trần Hậu Yên Thế (2014), “Vị thế của hình tượng sư tử trong Mỹ thuật Đại Việt.” Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số tháng 5
Mỹ Trà (2013), “Kiên quyết loại bỏ yếu tố ngoại lai ra khỏi di tích Việt,” trong VOV online ngày 9/12/2013. http://vov.vn/van-hoa/kien-quyet-loai-bo-yeu-to-ngoai-lai-ra-khoi-di-tich-viet-296001.vov
Bùi Ngọc Tuấn (2013), “Con Nghê một biểu tượng tạo hình thuần Việt,” trong trang: http://hcmufa.edu.vn/tap-chi/thong-tin-my-thuat-so-15-16/con-nghe-mot-bieu-tuong-tao-hinh-thuan-viet/

Đinh Hồng Hải-TCKT.VN

( Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 01 – 2015 )