- Tên đồ án: Trung tâm sinh hoạt văn hóa làng nghề muối tại Bạc Liêu
- Giải thưởng: Giải Khuyến khích Loa thành 2023
- SVTH: Võ Đông Như
- GVHD: TS. KTS Phạm Phú Cường
- Trường: ĐH Kiến trúc Tp. HCM
Cùng với con tôm, một trong những đặc sản nổi tiếng của Bạc Liêu từ xa xưa đến nay chính là hạt muối. Bạc Liêu có lịch sử nghề làm muối từ rất lâu đời, đồng thời cũng là tỉnh có nhiều kinh nghiệm trong việc sản xuất muối.
Bạc Liêu khi xưa được mệnh danh là “Thủ phủ muối” một thời của Nam Kỳ lục tỉnh – một trong những giai thoại khiến người dân nơi đây tự hào. Bạc Liêu vang danh với những cánh đồng muối Kinh Tư bao la với những đụn muối trắng lấp lánh trong nắng chiều. Màu trắng xóa bạt ngàn của đồng muối nổi bật giữa nền trời xanh ngắt và màu nâu của ruộng đồng đã tạo nên nét đặc trưng cho vùng đất nắng gió nơi đây một khung cảnh đầy xúc cảm khi các yếu tố Thiên – Địa – Nhân, không – thời gian như hòa làm một.
Nghề muối tại Bạc Liêu đã bước qua một hành trình dài hơn một thế kỉ để đến giờ vẫn cùng song hành mạnh mẽ với vùng đất này. Song, hiện tại những bước đi và chuyển mình của nghề đang dần chậm rãi và bấp bênh hơn do nhiều yếu tố tác động, đặc biệt là biến đổi khí hậu. Đồng thời, việc khan hiếm các công trình văn hóa nói chung và không gian sinh hoạt văn hóa làng nghề nói riêng khiến cho Bạc Liêu dù là một nơi có đủ tiềm năng bản sắc để vươn mình, nhưng đến nay các giá trị truyền thống đang dần bị lung lay và mai một dần bởi dòng chảy thời gian, sức ép của đô thị hóa và sự cạnh tranh của các ngành nghề có xu hướng thời đại.
Một công trình kiến trúc không đơn thuần là lưu dấu bản thân của chính nó trong không gian, mà còn là nơi ký ức và văn hóa được neo đậu. Vì thế, sự hình thành của “Trung tâm sinh hoạt văn hóa làng nghề muối” đóng vai trò như một bảo tàng của những giá trị “sống”, như một sợi dây liên kết các giá trị văn hóa của vùng đất từ quá khứ, hiện tại đến tương lai; phản ánh, vật thể hóa những ý niệm và hình ảnh về đời sống – văn hóa và khiến chúng trở nên đậm nét trong dòng chảy thời gian.
Bên cạnh đó, ý nghĩa của một không gian vật chất đóng vai trò như một “mỏ neo không gian”, giúp định vị rõ ràng nơi chốn của các giá trị văn hóa phi vật thể. Điều này đóng góp vào các giá trị tri thức cộng đồng, giúp những thế hệ mới sau này cũng như khách phương xa có thể tiếp cận và tìm hiểu.
Bối cảnh ngập nước vào mùa mưa và một vài đặc tính nhạy cảm của khu vực không cho phép chúng ta can thiệp quá sâu vào tầng địa chất. Vì thế, công trình cần có sự giao hòa và có những tác động “lành tính” trên nền hiện trạng. “Cái chạm nhẹ” là một sự miêu tả hoàn hảo cho những gì mà một không gian trong tưởng tượng mà tác giả muốn hướng đến. Công trình xuất hiện như một mảnh ghép vừa tương thích nhưng vẫn vừa độc bản, vừa mộc mạc nhưng vẫn đủ để lưu dấu trong bối cảnh. Dựa trên nghiên cứu đặc tính thị dân, công trình được biểu hiện bằng cách sử dụng ngôn ngữ thiết kế khúc chiết, cô đọng để vừa vặn với tâm thức và tạo sự gần gũi, thân thuộc cho cộng đồng nơi đây.
Sự tồn tại của công trình mang ý nghĩa như một “Diễn ngôn riêng của diêm nghiệp”. Nơi đây sẽ kể cho chúng ta nghe những câu chuyện về muối và hơi mặn từ biển cả, nơi giúp ta hiểu được những biện chứng của sự thường hằng và biến dịch, khiến bản thân ta trân trọng hơn những giá trị văn hóa vẫn đang hiện hữu tại vùng đất bình dị này. Để sau nhiều thập kỉ nữa, khi đặt chân đến đây ta vẫn còn nghe những câu vọng cổ ngân nga trên những cánh đồng, những đụn muối nhấp nhô trắng xóa vẫn còn in mình trên trền trời bao la, rộng lớn…
Xem thêm các đồ án đạt giải:
Các đồ án sẽ tiếp tục được Tạp chí Kiến trúc cập nhật trong thời gian tới, trân trọng kính mời quý bạn đọc theo dõi tại:
Giải Nhất (2)
- Khách sạn 21C Museum By Mgallery – NT – 17 – Trương Thanh Quí – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
- TK kiến trúc cảnh quan làng nông nghiệp “Thông minh” kết hợp với du lịch trải nghiệm không gian văn hóa Tây Nam Bộ – QC – 12 – Nguyễn Thị Bảo Ly – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
Giải Nhì (8)
- Không gian văn hóa cộng đồng người Hà Nhì – CC – 2 – Trịnh Lan Hương – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Cải tạo thích ứng nhà máy bóng đèn phích nước Rạng Đông – CC – 3 – Phùng Huy Việt – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Bảo tàng văn hóa biển – miền Trung – Bình Thuận – CC – 21 – Trần Thị Chi – ĐH Văn Lang
- Làng chài Cửa Vạn hồi sinh – CC – 32 – Nguyễn Long Vũ – ĐH Xây dựng Hà Nội
- Chợ Đồng Hới – CC – 57 – Vũ Quốc Hưng – ĐH Kiến trúc Đà Nẵng
- Học viện minh triết Phương Đông – CC – 67 – Võ Trường Duy – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
- Resort Zannier Hồ Lắc – NT – 16 – Nguyễn Minh Toàn – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
- Thủy hóa ký tế – Thiết kế cảnh quan không gian văn hóa tín ngưỡng thờ mẫu Tam Phủ của người Việt – QC – 4 – Nguyễn Thị Thu Ngân – ĐH Kiến trúc Hà Nội
Giải Ba (11)
- Recircle – Không gian nghệ thuật thời trang bền vững – CC – 28 – Văn Thị Mỹ Phương – ĐH Khoa học – ĐH Huế
- Làng thiền Vipassana – CC – 36 – Lê Văn Hưng – ĐHDL Phương Đông
- Phố dưỡng lão – Trung tâm chăm sóc lão niên và kết nối thế hệ phường Linh Đông – CC – 38 – Huỳnh Hữu Khánh – ĐH Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh
- Trung tâm sinh hoạt cộng đồng & du lịch trải nghiệm làng rau Ngọc Lãng – CC – 46 – Nguyễn Huỳnh Duyên – ĐH Tôn Đức Thắng
- Trung tâm nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn vườn Quốc gia Mũi Cà Mau – CC – 65 – Trần Đình Thụy Du – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
- Bảo tàng lịch sử khẩn hoang Nam Bộ – CC – 73 – Lâm Quang Nghị – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
- Khu nhà ở ven đô Trung Quan – Gia Lâm – NO – 1 – Lê Vũ Minh Đức – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Khu nhà ở Thanh Xuân Bắc – NO – 2 – Nguyễn Thu Hương – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Trung tâm điện ảnh Tp. Hồ Chí Minh – NT – 18 – Nguyễn Đình Nha Thanh – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
- QH phân khu tỷ lệ 1/5000 khu đô thị mỏ Hà Tu – Phường Hà Tu, Hà Phong – Tp. Hạ Long tỉnh Quảng Ninh – QC – 13 – Nguyễn Hoàng Bảo – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
- TK đô thị khu dân cư khu vực chợ nổi Cái Răng, thuộc một phần phường Lê Bình, Q. Cái Răng và một phần phường An Bình, Q. Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ – QC – 16 – Ngô Thanh Tâm – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
Giải Khuyến khích (11)
- Bảo tàng Hải Dương Học – CC – 5 – Đào Thị Linh Giang – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Trung tâm bảo tồn và phát triển di sản văn hóa Ví Giặm – CC – 8 – Nguyễn Thành Vinh – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Không gian phục hồi và phát triển tinh thần cho thanh thiếu niên – CC – 10 – Phan Nhật Minh – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Trung tâm nghiên cứu và phát triển năng lượng tái tạo tỉnh Ninh Thuận – CC – 13 – Lê Văn Khánh – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Không gian phát triển năng lực và kết nối cộng đồng cho người điếc tại Hà Nội – CC – 15 – Nguyễn Tiến Huy – ĐH Kiến trúc Hà Nội
- Bảo tàng kiến trúc và đô thị Huế – CC – 22 – Phạm Hữu Minh Quân – ĐH Văn Lang
- Trung tâm bảo tồn và phát triển tre Thanh Tam – CC – 30 – Thiệu Văn Mạnh – ĐH Xây dựng Hà Nội
- “Làng” chữa lành tâm thức Đà Lạt – Lâm Đồng – CC – 41 – Huỳnh Võ Thanh Trúc – ĐH Sư phạm KT Tp. HCM
- Khu nghỉ dưỡng sinh thái Rạch Vẹm – Phú Quốc – CC – 59 – Nguyễn Ngọc Phúc – ĐH Kiến trúc Đà Nẵng
- Trung tâm sinh hoạt văn hóa làng nghề muối tại Bạc Liêu – CC – 69 – Võ Đông Như – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
- Bảo tàng lịch sử gốm sứ mậu dịch Cù Lao Chàm – CC – 71 – Lê Quốc Tuấn – ĐH Kiến trúc Tp. HCM
Khánh Hòa – TCKT.VN
© Tạp chí Kiến trúc